Ñeä Töû Quy laø tri thöùc cuûa ngöôøi xöa ñeå laïi.
Toå Tieân nhaân haäu giuùp ñôõ cho neân
Quoác Gia, xaõ hoäi, ñôøi soáng cuûa Quyù vò
khi thöïc haønh seõ ñöôïc keát quaû toát ñeïp

detuquy.edu.vn

KINH TỨ THẬP HOA NGHIÊM PHẨM PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN, CHƯƠNG CÁT TƯỜNG VÂN TỲ KHEO GIẢNG GIẢI - TẬP NĂM

KINH TỨ THẬP HOA NGHIÊM

PHẨM PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN,

CHƯƠNG CÁT TƯỜNG VÂN TỲ KHEO

GIẢNG GIẢI

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP NĂM
 

Xin mở quyển Kinh, trang thứ mười hai, dòng cuối cùng, xem từ dòng cuối cùng trở đi.

Nếu căn cứ theo sự biểu thị địa vị để luận định thì chỗ này chỉ thẳng vào cái thể của địa vị phát tâm trụ. Dùng sức văn huân của tánh hiểu biết sẵn có để khiến cho khai ngộ, phát tâm, nên gọi là quyết định giải.

Hôm qua vì thời gian bó buộc, câu này chỉ giảng được một nửa. Đây là câu thứ hai trong bốn câu. Dùng trí quang chiếu diệu ánh sáng trí huệ rực sáng để giải thích ý nghĩa của câu quyết định giải trong phần trước.

Đoạn cuối cùng, nếu luận về sự biểu thị pháp, nhược ước biểu vị, nhược là giả thiết ví như, ví như dùng sự biểu thị pháp để nói. vị là năm mươi mốt địa vị của bậc Bồ Tát, Tỳ Kheo Cát Tường Vân là đại biểu cho địa vị Sơ trụ, tức bậc Sơ trụ Bồ Tát trong Viên giáo, Ngài đại diện cho địa vị này.

Thử trung chánh thị phát tâm trụ thể, câu này nhằm nói tới trí quang chiếu diệu, trí quyết định giải chính là thể tướng của địa vị phát tâm trụ Sơ trụ. Phát tâm chính là phát bồ đề tâm.

Nếu không có trí huệ chân thật sẽ không khởi bồ đề tâm được. Vì thế, chỉ cần bồ đề tâm thật sự phát khởi thì người ấy sẽ là Sơ trụ Bồ Tát trong Viên giáo, trí huệ sẽ thấu lộ ra. Hai câu kế tiếp để giải thích. Dĩ bổn giải tánh, bổn giải chính là trí quyết định giải đã nói trong phần trước.

Giải là thấu hiểu điều gì?

Nói sơ sài, cạn cợt nhất thì là chân tướng của vũ trụ, nhân sinh, vị ấy đều hiểu rõ, đều hiểu rành, một mảy may nghi hoặc cũng không có. Đấy gọi là quyết định giải. Đấy là trí huệ chân thật. Do trí huệ ấy hiện tiền nên là Sơ trụ Bồ Tát. Do vậy, dùng sức văn huân của tánh hiểu biết sẵn có để khiến cho bồ đề tâm được mở mang, phát khởi, câu bổn giải tánh tánh hiểu biết sẵn có rất ý vị.

Do đây, biết rằng: Trí huệ chẳng phải là từ bên ngoài tới, nếu từ bên ngoài tới sẽ chẳng có năng lực ấy. Bổn là vốn đã có sẵn, đã sẵn trọn đủ trong tự tánh của chúng ta.

Vốn sẵn trọn đủ, vì sao năng lực ấy chẳng hiện tiền nơi chúng ta?

Đấy là vấn đề của văn huân. Chúng ta văn huân huân tập do nghe pháp không đủ, công phu văn huân chưa đến mức. Vì thế, bổn giải tánh chẳng tỏ lộ ra, cũng có nghĩa là trí huệ, đức năng vốn sẵn có trong bổn tánh chẳng thể hiện tiền.

Nếu muốn cho nó được hiện tiền, hiện tiền là khởi tác dụng, nhất định phải dựa vào văn huân. Văn là nghe pháp, huân là huân tập, chẳng những chỉ gồm văn nghe mà còn phải bao gồm tư, tu, tức Bồ Tát phải học tam huệ văn tư tu. Văn là tiếp xúc, đối với người mới học, nghe pháp hết sức trọng yếu.

Nếu như văn huân không trọng yếu như thế thì quý vị hãy suy nghĩ xem, lúc Đức Thế Tôn tại thế, cần gì Phật phải giảng Kinh thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm?

Vì sao chẳng lập niệm Phật đường, dạy chúng ta thật thà niệm Phật?

Hay lập Thiền Đường dạy chúng ta tu Thiền Thất?

Từ Đại Tạng Kinh chúng ta thấy: Suốt một đời Đức Thế Tôn không làm những chuyện ấy. Mỗi một ngày, Ngài giảng Kinh thuyết pháp cho đại chúng, nhưng trong số các đệ tử, chúng ta biết thường tùy chúng là hai ngàn năm trăm năm mươi lăm vị.

Những vị ấy chẳng rời khỏi Phật, Phật đi đến đâu họ liền theo đến đó. Nói cách khác, mỗi một vị đều nghe Kinh suốt mấy chục năm. Ngày ngày nghe, nghe suốt mấy chục năm, văn huân đấy. Cũng có người trong số quý vị nghĩ họ có phước báo như thế, hằng ngày được nghe pháp từ nơi Phật, chúng ta không có phước.

Thật ra, phước báo của con người chúng ta hiện thời chẳng kém phước báo của người thời ấy, có thể nói là còn lớn hơn họ nữa kia.

Trước kia không có máy thâu âm, không có máy thâu hình, nghe một lượt xong, không có cơ hội nghe lần thứ hai nữa. Suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật giảng Kinh thuyết pháp, trừ Vô Lượng Thọ Kinh ra, chưa hề giảng Kinh nào hai lần. Vì thế văn huân đắc lực thật sự là chuyện rất khó.

Do vậy, họ nghe quá nhiều, trọn chẳng chuyên nhất, hiệu quả đắc lực kém hơn rất nhiều. Hiện thời chúng ta có công cụ khoa học, nếu ưa thích Hoa Nghiêm thì mỗi ngày quý vị nghe Kinh Hoa Nghiêm.

Quý vị nghe trên mười năm hay tám năm, thâm nhập một môn so với những vị ấy theo Thích Ca Mâu Ni Phật suốt bốn mươi chín năm, hiệu quả còn thù thắng hơn nhiều.

Nếu quý vị hỏi vì sao ư?

Những vị ấy nghe nhiều quá, còn quý vị thì chuyên ròng một bộ. Nếu quý vị nghe Vô Lượng Thọ Kinh, nghe Di Đà Kinh, nghe hai trăm lượt, ba trăm lượt, sức văn huân chẳng thể nghĩ bàn.

Vấn đề là chúng ta có làm được hay không?

Có hiểu đạo lý ấy hay không?

Có chịu làm như thế hay không?

Kinh Di Đà gọi đó là thiện căn, phước báo, nhân duyên. Thiện căn là hiểu rõ đạo lý này, thông đạt hiểu rõ là thiện căn, thật sự phát tâm là phước đức, duyên là cơ hội. Giống như trong ngôi Đạo tràng nhỏ của chúng ta hiện thời, mỗi một ngày mở cửa cho mọi người niệm Phật tại đây, trong hai mươi bốn tiếng chẳng ngưng nghỉ, đấy là duyên, là cơ hội.

Có cơ hội để mọi người niệm Phật tại đây, có cơ hội để mọi người mỗi ngày nghe Kinh tại đây, đấy là nhân duyên. Thiện căn, phước đức, nhân duyên, ba điều kiện đều đầy đủ, đấy là đại phước báo. Phước báo thù thắng khôn sánh. Quý vị muốn thành tựu, không có lý nào chẳng thành tựu.

Kinh giảng đến chỗ này, Đại Sư Thanh Lương dạy chúng ta: vị Bồ Tát ấy chứng được địa vị Sơ trụ là nhờ sức văn huân.

Linh khai phát cố: Chữ khai phát này là từ ngữ dùng trong nhà Thiền. Trong Thiền Tông thường gọi là minh tâm kiến tánh, khai ngộ. Khai là khai ngộ, phát là phát tâm. Hễ khai ngộ sẽ phát vô thượng bồ đề tâm, A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, đấy là nhập địa vị Sơ trụ, ý nghĩa ấy này được gọi là quyết định giải. Do vậy, dùng từ ngữ trí quang chiếu diệu để giải thích chữ quyết định giải.

Ba, phổ nhãn minh triệt là. Đây là câu giải thích. Giải thích ý nghĩa quán cảnh tự tại, không cảnh nào chẳng quán, nên gọi là phổ nhãn. Phổ là phổ biến, trong ấy có những ý nghĩa thanh tịnh, bình đẳng. Nếu như tâm không thanh tịnh, tâm chẳng bình đẳng sẽ chẳng thể phổ biến được.

Do vậy, tựa đề của phẩm Kinh này là Phổ Hiền Bồ Tát, chữ Phổ này bao hàm những ý nghĩa thanh tịnh và bình đẳng một cách viên mãn. Vô cảnh bất quán, cảnh giới thù thắng của Chư Phật Như Lai là nhất chân pháp giới, Thế Giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na, Thế Giới Cực Lạc của A Di Đà Phật đều là nhất chân pháp giới.

Từ nhất chân pháp giới trở xuống có mười pháp giới, trong hết thảy các Cõi Phật đều có mười pháp giới. Các vị Bồ Tát thuộc địa vị này có năng lực phổ quán, không cảnh nào chẳng quán. Như trong phần trước đã nói, vị ấy muốn thấy cảnh giới nào, cảnh giới ấy liền hiện tiền, chẳng muốn thấy thì Thế giới ấy sẽ không hiện nữa.

Trong phần trên, tôi đã nói: Ví như chúng ta coi Ti vi, muốn coi đài nào thì vặn sang băng tần channel ấy, màn hình liền hiện ra. Ở nơi đây, chúng ta muốn chọn một đài nào thì phải vặn sang băng tần ấy, còn bọn họ thì không cần, chẳng mất công như thế, khởi tâm động niệm thì cảnh giới liền hiện tiền. Dưới đây, Ngài Thanh Lương nêu một thí dụ, trong mười pháp giới nêu một thí dụ, lấy Phật để dẫn chứng.

Bởi Như là Phật, không pháp nào chẳng như. Như là chân như, là tự tánh. Bản tánh của chân như có thể hiện, có thể biến. Hết thảy cảnh giới đều được biến. Nếu nói theo Phật pháp giới thì không pháp nào chẳng như.

Cho nên không gì chẳng phải là Phật vậy.

Chính là như Kinh Hoa Nghiêm đã dạy: Một tức hết thảy, hết thảy chính là một. Đây là Phổ Nhãn.

Nhập Phật pháp giới thì có pháp nào chẳng phải là Phật?

Pháp nào cũng đều là Phật. Vì thế, Cổ Đại đức bảo chúng ta, nếu mỗi một người chúng ta thành Phật thì khi người ấy thành Phật, thấy tận hư không, trọn pháp giới, hữu tình lẫn vô tình đều là Phật.

Lời này cũng được nói trong Kinh Hoa Nghiêm: Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí hữu tình lẫn vô tình đều cùng viên mãn chủng trí. Chủng trí là nhất thiết chủng trí, tức là điều đã được chứng bởi Như Lai. Viên là viên mãn. Hữu tình và vô tình cùng viên mãn nhất thiết chủng trí, ấy là thành Phật. Nếu bảo coi Như là Bồ Tát, thì không pháp nào chẳng phải là Bồ Tát thì hết thảy pháp tình và vô tình đều là Bồ Tát.

Nói thật ra, đây cũng là quan niệm, trong vòng một niệm.

Vì sao chúng ta không có cảnh giới ấy?

Khi sáu căn của chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài liền phân biệt, chấp trước, khởi vọng tưởng, khởi chấp trước. Do vậy, ý niệm hết sức hỗn loạn.

Chư Phật, Bồ Tát ý niệm rất thanh tịnh, do thanh tịnh nên cảnh giới được hiện chỉ là một cảnh giới. Nếu quán thấy cảnh giới ấy là do Phật hiện thì là cảnh giới Phật, quán thấy cảnh giới ấy là do Bồ Tát hiện thì là cảnh giới Bồ Tát. Các Ngài hiện một cảnh giới, nhưng nay chúng ta thấy sắc nghe tiếng, cảnh giới ấy lộn xộn, lung tung.

Vì sao có hiện tượng ấy?

Chứng tỏ tâm tư quý vị rất loạn, tâm quý vị không thanh tịnh, chẳng phải do cảnh giới bên ngoài gây loạn mà do chính tâm của quý vị loạn.

Đấy là như Kinh Luận Đại Thừa thường bảo: Tướng tùy tâm chuyển tướng chuyển biến theo tâm. Do vậy như, như là bản tánh chân như, là chân tâm. Nếu chân tâm của quý vị là Phật, sẽ thấy tất cả cảnh giới đều là Phật. Nếu tâm quý vị là tâm của Bồ Tát thì thấy hết thảy cảnh giới đều là Bồ Tát. Hiện thời, tâm chúng ta thứ gì cũng đều trật, do vậy thấy hết thảy pháp loạn xạ, lung tung, đạo lý là như vậy đó.

Xã hội phức tạp như thế, xã hội hỗn loạn như thế, chúng ta điều chỉnh bằng cách nào ?

Người biết điều chỉnh thì điều chỉnh từ tự tánh, sao quý vị lại điều chỉnh từ bên ngoài?

Chẳng thể được.

Thưa với quý vị, đó gọi là cầu pháp ở ngoài tâm, chẳng thể điều chỉnh được.

Cách điều chỉnh ra sao?

Điều chỉnh từ nơi tự tánh, quý vị điều chỉnh tự tánh thì cảnh giới bên ngoài sẽ tự nhiên chuyển biến theo. Nhất định phải tin Chư Phật, Bồ Tát là những vị đã từng trải, những gì các Ngài đã nói chính là tường thuật kinh nghiệm. Đấy là tâm có thể chuyển cảnh, muôn phần chớ để cho tâm bị cảnh chuyển.

Tâm bị cảnh chuyển là hỏng rồi. Cảnh giới đã phức tạp như thế, tâm chúng ta thuận theo cảnh giới sẽ càng phức tạp thêm, vọng niệm càng nhiều hơn, phân biệt, chấp trước càng lúc càng nhiều, cảnh giới bên ngoài càng ngày càng nghiêm trọng, đâm ra chỉ chú trọng phát triển nơi phương diện phụ, chẳng thể chú trọng phát triển nơi phương diện chánh. Nếu muốn đem phương diện phụ quy về phương diện chánh, phải hoàn toàn dốc sức nơi tâm địa.

Có như vậy thì mới có thể tự cứu mình, cứu chúng sanh, mới có thể biến đổi xã hội thành tốt đẹp hơn, thanh tịnh hóa lòng người. Lại xem tiếp câu thứ ba.

Coi giác là Phật, không tâm nào chẳng phải là giác, tâm đều là Phật vậy. Chữ Phật này là phiên âm tiếng Phạn, có ý nghĩa là Giác.

Nếu coi Giác là Phật thì sao?

Không tâm nào chẳng phải là giác. Sáu căn đối với sáu thứ cảnh giới, không có gì chẳng phải là giác, giác chính là Phật. Vì vậy, tâm đều là Phật. Chúng ta thường gọi điều này là Phật tâm, trong Pháp Tướng Tông gọi là chuyển thức thành trí chính là ý nghĩa này.

Chuyển A lại da thành đại viên kính trí, chuyển Mạt Na Thức thành bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ sáu thành diệu quán sát trí, chuyển năm thức trước thành thành sở tác trí.

Đấy chính là không tâm nào chẳng phải là giác, tâm đều là Phật vậy. Đó gọi là Tứ Trí bồ đề. Mấy câu tiếp theo đó hết sức trọng yếu, nếu chúng ta muốn học, muốn dụng công thì phải nhớ kỹ nguyên tắc này.

Dùng sự giác ngộ bởi cái tâm rỗng rang để khế nhập cảnh chỉ là như. Hai câu này là cương lãnh, là nguyên tắc tu hành trọng yếu. Do vậy, tâm phải trống, phải rỗng, trong tâm chẳng thể chứa thứ gì, trong tâm vẫn còn có những có vật gì thì sẽ mê, trong tâm không có gì thì là giác.

Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát đã giảng cho chúng ta biết: Bổn giác bổn hữu bổn giác vốn sẵn có.

Ngài lại dạy chúng ta: Bất giác bổn vô Bất giác vốn không có.

Giác vốn là có, vì sao nay chúng ta không có cái giác tâm ấy?

Là vì tâm quý vị không rỗng rang, tâm quý vị có thứ này, thứ nọ, nên tự tánh giác của quý vị bị chướng ngại. Thưa quý vị, chẳng phải là người khác gây trở ngại cho quý vị, mà chính quý vị tự chướng ngại mình.

Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính quý vị đã chướng ngại tự tánh giác. Tự tánh giác là Phật, tự tánh chánh là pháp, tự tánh tịnh là Tăng, gọi là tự tánh Tam Bảo. Bởi tâm quý vị có thứ này thứ nọ nên tự tánh Tam Bảo của quý vị chẳng thể hiện tiền.

Sơ trụ Bồ Tát đạt được tâm rỗng rang, đoạn được kiến tư phiền não, kiến tư phiền não là chấp trước, trần sa phiền não cũng đoạn. trần sa phiền não là phân biệt. Trong hết thảy pháp, Ngài cũng chẳng khởi phân biệt, chẳng còn chấp trước, phân biệt, vĩnh viễn không có chấp trước.

Vô minh cũng phá được một phẩm, tâm Ngài rỗng rang, tâm trống không, do rỗng không cho nên linh, thường được gọi bằng danh từ không linh giác tánh rỗng rang.

Linh là gì?

Linh là giác, tự tánh giác hiện tiền. Giác tánh hiện tiền sẽ khế hợp cảnh duy như chỉ có như, tức là ngoài như ra, tất cả những cảnh giới đều không có.

Như là gì?

Như là chân như. Pháp nào cũng đều là như, không có pháp nào chẳng như, đây là cảnh giới chứng đắc bởi Chư Phật Như Lai, không có một pháp nào chẳng như.

Phải hiểu ý nghĩa này. Cổ nhân có một tỷ dụ. Cổ nhân dùng vàng ròng làm tỷ dụ, tức là nói dùng vàng làm đồ vật, món nào cũng đều là vàng, tỷ dụ này dễ hiểu. Các Ngài đem vàng ví với như, đem pháp ví với các món vật, không pháp nào chẳng phải là Như chính là món vật nào cũng đều là vàng.

Trong tâm ắt phải rỗng không, tách lìa hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tự tánh giác sẽ hiện tiền, sau đấy mới thấy thấu suốt pháp thế gian lẫn xuất thế gian trong tận hư không, trọn pháp giới, không có một pháp nào chẳng như. Chính là pháp giới bất động, tột cùng nguồn tịch chiếu.

Nay chúng ta thấy cảnh giới bên ngoài là động, các Ngài thấy cảnh giới bên ngoài bất động, đấy là đạo lý gì vậy?

Vẫn là như phần trước đã nói cảnh chuyển theo tâm. Tâm các Ngài chẳng động, vì thế thấy cảnh giới bên ngoài là bất động. Tâm chúng ta động, một niệm diệt, niệm sau sẽ sanh, sanh diệt, diệt sanh với tốc độ nhanh chóng đến nỗi phàm phu chúng ta chẳng thể tưởng tượng được.

Vì thế, tâm của phàm phu là vọng tâm, vọng tâm là tâm bị động, chân tâm là bất động. Chân tâm là tướng tĩnh, tịch tĩnh, vọng tâm là vọng động. Tâm động nên trông thấy tướng cảnh giới bên ngoài đều là động, đều là sanh diệt.

Bồ Tát vào trong cảnh giới này tâm bất động, do vậy thấy hết thảy vạn pháp đều là tướng tịch diệt, hiển thị pháp giới bất động tột cùng nguồn tịch chiếu. Tịch là thể, chiếu là dụng, tịch là thanh tịnh tâm, chiếu chính là trí quang chiếu diệu như đã nói trong phần trước.

Tâm thanh tịnh khởi tác dụng chính là trí quang chiếu diệu. Tiếp theo đây là nói về nhập cảnh giới, cảnh giới đẹp đẽ, cảnh giới tốt lành không gì sánh bằng được.

Tâm lẫn cảnh đều là Phật, năng và sở đều diệt mất. Nếu có năng, có sở thì vẫn là hai thứ. Đến khi ấy năng và sở dung hợp thành một khối, trong ấy không có giới hạn, trong tâm và cảnh không có giới hạn. Trong phần sau cuốn niệm Phật Luận của Đại Sư Đàm Hư, chúng tôi có đính kèm những lời Ngài khai thị trong Phật Thất, trong ấy Ngài có kể một câu chuyện.

Trước kia Ngài dạy học tại Chùa Cực Lạc ở Cáp Nhĩ Tân, miền Đông Bắc, nơi ấy không có người xuất gia, thầy giáo, học trò đều là người tại gia. Ngài thỉnh một vị họ Trương, tức Trương Tiên Sinh làm hiệu trưởng. Trương Tiên Sinh cũng niệm Phật rất siêng.

Có một ngày, ông ta hỏi lão Hòa Thượng: Con niệm Phật có nghi hoặc.

Lão Hòa Thượng hỏi ông ta: Ông nghi hoặc điều gì?

Ông ta thưa:

Con thấy trong Kinh nói: Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà ông ta nói duy tâm Tịnh Độ thì tâm ta là Tịnh Độ, con còn phải cầu sanh Tịnh Độ làm gì?

Tự tánh của ta là Di Đà, sao con còn phải niệm Di Đà?

Lão Hòa Thượng nghe xong gật đầu: Ông hỏi rất có lý. Nếu không giải quyết nghi vấn ấy thì ông ta niệm Phật sẽ bị chướng ngại, ông ta không niệm nữa.

Lão Hòa Thượng có trí huệ, hỏi ngược lại ông ta: Giới hạn giữa tự tánh Di Đà và Đức Di Đà ở Tây Phương ở chỗ nào?

Biên giới ở chỗ nào?

Giới hạn giữa duy tâm Tịnh Độ của ông và Tây Phương Tịnh Độ lại ở chỗ nào?

Câu hỏi ấy rất hay.

Vị hiệu trưởng ấy rốt cuộc là người có học, cũng rất thông minh, có ngộ tánh đôi chút, ông ta nghĩ rất lâu, thưa: Không có biên giới. Không có biên giới thì năng lẫn sở đều mất.

Đúng quá. Không có biên giới, niệm A Di Đà Phật là niệm tự tánh Di Đà, cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ là cầu sanh về duy tâm Tịnh Độ, tín tâm của quý vị mới định được, quý vị quyết định nắm chắc vãng sanh, vì sao vậy?

Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ là của ta, sao ta không thể vãng sanh?

Quý vị nói xem, quý vị dựa vào đâu mà có thể vãng sanh?

Dựa vào đấy.

Vì thế, sau khi thấu triệt đạo lý, quý vị kiên định tín nguyện, tuyệt đối chẳng bị dao động, chẳng hoài nghi.

Phật cao chót vót, làm sao ta vói tới?

Ý niệm ấy không có, tự tánh Di Đà mà. Nhưng nếu không giải quyết được, nghi vấn ấy sẽ biến thành chướng ngại, quý vị suốt đời niệm Phật vẫn chẳng có cơ hội vãng sanh. Khi vấn đề được giải quyết, tín nguyện liền kiên định. Sau này, Trương hiệu trưởng vãng sanh, biết trước lúc mất, thật sự chẳng thể nghĩ bàn.

Năng lẫn sở đều mất, há chẳng phải là phổ ư?

Đây chính là ý nghĩa của chữ phổ.

Có Năng, có Sở thì còn là Phổ được sao?

Bất luận cảnh giới sâu đến đâu, rộng đến mấy, vẫn chẳng thể cự lại được chữ phổ này, ắt biên giới ấy phải tiêu tan. Vì thế, vàng tức là đồ vật, đồ vật tức là vàng, không có biên giới.

Chân nhãn như thế thì mới là sáng suốt, thấu triệt. Mắt thấy chân tướng của Vũ trụ nhân sinh mới gọi là minh, mới gọi là triệt. Minh là hiểu rõ, triệt là rốt ráo triệt để, là sở đắc của Bồ Tát.

Điều cuối cùng là: Đầy đủ hạnh thanh tịnh. Câu này nhằm giải thích ý nghĩa của chữ lực trong phần trước. Phi duy tịnh tín, nhược trầm, nhược cử, chư cái, chư thủ, chư tam muội chướng, giai tất bất sanh. Cố vân thanh tịnh.

Chẳng phải chỉ là tịnh tín, dù hôn trầm hay trạo cử, các cái, các thủ, các tam muội chướng đều chẳng sanh. Cho nên gọi là thanh tịnh. Trước hết đem ý nghĩa của hai chữ này giảng đại lược. Trầm là hôn trầm, tinh thần không khởi lên được.

Đặc biệt là khi niệm Phật, niệm Phật vào lúc nào?

Khi chỉ tịnh, tức là khi quý vị ngồi xuống, chúng ta thường nhận thấy cũng có lắm khi chúng ta vừa ngồi xuống chưa được mấy phút đã gật gù rồi, đấy là hôn trầm, mệt mỏi, tinh thần không khởi lên được. Cử là trạo cử lao chao, là hiện tượng hoàn toàn trái ngược với hôn trầm.

Người ta vừa ngồi xuống, trong tâm ý niệm, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, có nhiều sức ép không đè nén được, gọi là vọng tưởng tơi bời, gọi là trạo cử. Hai hiện tượng này hoàn toàn bất đồng, khi chúng ta dụng công, bất luận chúng ta tu hành pháp môn nào, hai thứ ấy đều là chướng ngại, nhưng gần như mỗi cá nhân đều gặp phải chướng ngại này.

Vì thế, gặp phải tình hình ấy đừng sợ, đừng nghĩ chính mình nghiệp chướng rất nặng, ta không thể niệm Phật được. Nghĩ vậy là lầm rồi. Nhất định phải khắc phục, muốn khắc phục phải chọn lựa phương pháp.

Chẳng hạn như, hễ hiện tượng hôn trầm nổi lên thì chúng ta đừng ngồi nữa, chúng ta nhiễu Phật, vừa nhiễu vừa niệm, hoặc chúng ta lễ Phật, lễ mấy chục lạy, lễ một hai trăm lạy, hôn trầm sẽ không còn nữa.

Đổi phương thức, nhưng không thể đổi pháp môn. Chúng ta vẫn niệm Phật, một câu Phật hiệu cứ niệm tiếp. Khi ta ngồi niệm bèn đổi thành vừa đi kinh hành vừa niệm, đổi thành vừa lạy vừa niệm.

Khi bị trạo cử thì ngược lại, chúng ta chọn cách tịnh tọa niệm Phật, thân tâm, thế giới hết thảy đều buông xuống, nhất tâm nhất ý nghe Phật hiệu, nhất tâm nhất ý quán Phật, dùng phương pháp này để đối trị trạo cử. Đây là chuyện thường gặp nhất, bất luận tu học theo pháp môn nào.

Hai thứ chướng ngại ấy đều là do tâm không thanh tịnh, trong tâm đã thanh tịnh thì làm sao có những thứ ấy?

Chư cái, chư thủ: Cái là nói tỷ dụ, ngăn che trí huệ đức năng trong tự tánh của chúng ta. Cái có nghĩa là chướng, tức là chướng ngại, ngăn trở. Trong Kinh thường nói có năm thứ, chẳng hạn như nói đến ngủ nghê, trong năm thứ ấy, mỗi người hễ đi ngủ thì công phu sẽ gián đoạn, tức là bị ngăn trở rồi.

Vì vậy Ban Châu tam muội, tức môn Ban Châu tam muội mà Tỳ Kheo Cát Tường Vân tu tập, chín mươi ngày không ngủ nhằm phá trừ chướng ngại ấy. Ai có thể trong suốt chín mươi ngày không ngủ thì công phu khá lắm, trong tâm phải thanh tịnh lắm mới làm được.

Vì thế, ngủ nghê không phải là chuyện tốt. Tài, sắc, danh, thực, thùy, gọi là ngũ dục, người thật sự có công phu đều có thể tách lìa năm thứ ấy. Nhưng đối với đại đa số người, chúng ta tách lìa Tài vẫn không sao, Tài có thể bỏ được.

Sắc là nam nữ sắc dục, cũng có thể gạt bỏ được, danh cũng có thể bỏ được, ăn thì không được. Một ngày vẫn phải ăn ba bữa, ngoài ba bữa ra còn phải ăn điểm tâm, ngủ chẳng thể bỏ được.

Nói cách khác, trong năm thứ chướng ngại ấy, quý vị chẳng bỏ được hai thứ, vậy là công phu của chính mình không trọn đủ.

Khi công phu trọn đủ sẽ làm được. Người tu định hiện thời như nhiều vị đồng tu đã biết, đầu thời Dân Quốc lão Hòa Thượng Hư Vân công phu khá lắm. Qua Niên Phổ, chúng ta thấy Ngài thường nhập định một, hai tuần lễ, thậm chí đến một hai tháng, ngồi bất động ngay nơi đó.

Ngài nhập định có phải là ngủ hay không?

Không. Ngài chẳng ngủ. Ngủ nghê sẽ không thể duy trì nổi tư thế ấy.

Hễ ngủ sẽ gục xuống, đã gục xuống thì làm sao ngồi thẳng lưng được?

Ngài không ngủ nghê, Ngài không có ngủ nghê, Ngài tỉnh táo, Ngài ở trong cảnh giới định. Do vậy, khi Ngài nhập định, quý vị thấy Ngài không ngủ nghê, Ngài cũng không cần ăn uống.

Giả sử Ngài nhập định một tháng thì khi Ngài xuất định tinh thần vẫn sung mãn, Ngài cũng không cảm thấy cả một tháng nay ta không ăn gì hết, phải ăn thôi.

Không có. Tuyệt đối không có, nhưng khi Ngài xuất định, thường cảm thấy thời gian nhập định rất ngắn, ta mới ngồi chưa được bao lâu, nhưng thật sự là đã qua rất nhiều ngày rồi.

Trong Niên Phổ có chép một mẫu chuyện nhỏ. Đại khái là trong dịp Tết, Ngài ở trong Am Tranh trên núi, lão Hòa Thượng luộc một nồi khoai. Sau khi đốt lửa lên, đang luộc khoai, luộc khoai đương nhiên cần phải chờ đợi một lát, Ngài ngồi bên cạnh liền nhập định.

Cũng chẳng biết là nhập định bao lâu, qua năm mới rồi, những vị sư trụ trong ngôi miếu ở gần nhận thấy đã lâu không thấy lão Hòa Thượng, chẳng biết Ngài ra sao, đến Am Tranh của Ngài tìm. Khi tới Am Tranh, họ thấy Ngài tịnh tọa nơi đó. Lúc ấy, vị xuất gia đó bèn dùng dẫn khánh gõ bên tai Ngài để nhắc Ngài xuất định. Gõ xong, Ngài liền xuất định.

Trông thấy hai người bọn họ, Ngài nói: Đến kịp lúc đấy, tôi đang luộc khoai, muốn mời các vị ăn khoai. Kết quả là lúc mở nồi ra, khoai đã phủ mốc dày, trong nồi đều bị mốc hết rồi.

Hơn hai mươi ngày, Ngài nói: Tôi cảm thấy mới ngồi mấy phút. Điều này cho thấy ăn uống và ngủ nghê đều có thể lìa khỏi được.

Trong Kinh Phật thường nói tới tới Tam Giới: Đối với Dục Giới thì trong Dục Giới có ăn uống, có nam nữ, ẩm thực, Cõi Trời Sắc Giới từ Sơ Thiền trở lên không có nữa, họ lấy Thiền Duyệt làm thức ăn. Quý vị hiểu rõ đạo lý này sẽ hiểu được lẽ dưỡng sinh.

Hiện thời những kẻ giàu có ở Đài Loan, có rất nhiều người ăn thực phẩm bổ dưỡng để tẩm bổ, mà đồ bổ đó là gì?

Toàn chứa chất độc gây bệnh, chẳng phải là thứ tốt lành, bồi bổ cho những chứng bệnh kỳ quái phát sanh.

Phật Pháp từng dạy chúng ta thứ gì bổ dưỡng tốt nhất cho thân thể?

Tâm thanh tịnh. Trong tâm quý vị không một tạp niệm nào nẩy sanh thì sẽ khỏe mạnh nhất, bổ dưỡng nhất.

Vì sao người trong Cõi Trời Sắc Giới chẳng cần phải ăn?

Vì tâm họ thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh ra hoan hỷ, đấy là từ bi, hỷ xả, pháp hỷ sung mãn.

Do đây có thể biết được rằng: Hết thảy những thứ ngăn lấp cũng là do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước sanh ra, chứ không phải là vốn có, chẳng phải là thật nên có thể tách lìa được.

Thủ lại càng hư vọng hơn, thủ chính là thủ xả lấy, bỏ. Có thể nói là Kinh Bát Nhã, tức bộ bát nhã gồm sáu trăm quyển có thể quy nạp tới mức cuối cùng thành một câu bất khả đắc chẳng thể được. Hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng thể được.

Kinh Kim Cang nói rất rõ ràng: Tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được. Tâm ấy có công năng giữ lấy, nhưng cái tâm có khả năng lưu giữ ấy thì lại không thể được, cái bị giữ lấy chính là các pháp.

Đức Phật nói càng rõ hơn: Các pháp do duyên sanh, bản thể của chúng đều là không, trọn chẳng thể được. Năng Thủ, sở thủ đều không thể được.

Quý vị giữ lấy những gì?

Quý vị hiểu được đạo lý này sẽ thật sự buông xuống được. Được mất, lấy bỏ đều buông xuống hết, tâm quý vị sẽ được tự tại.

Chư tam muội chướng: Chư là nhiều, quá xá nhiều.

Tam Muội là gì?

Tam Muội là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Trung Quốc là chánh thọ, tức hưởng thụ đúng đắn. Nói cách khác, quý vị hưởng thụ sai quấy thì sẽ thành chướng ngại. Hưởng thụ vật chất, hưởng thụ tinh thần vô lượng, vô biên. Trong Kinh Bát Nhã nói tới mấy trăm thứ tam muội, nói rất cặn kẽ.

Đấy là nói chi tiết, chứ trong sự cảm nhận của chúng ta trong cuộc sống thường ngày, sự cảm nhận trong công việc, sự cảm nhận trong khi ứng xử, tiếp người, đãi vật, hễ cảm nhận không đúng đắn sẽ đều thành chướng ngại.

Đây là nói tổng quát: Hôn trầm, trạo cử, ngũ cái, các thủ, tam muội. Nói chung, những thứ chướng ngại ấy thảy đều chẳng sanh. Tâm quý vị thanh tịnh, cho nên chướng ngại hoàn toàn không có. Cố vân thanh tịnh cho nên gọi là thanh tịnh. Đấy là cảnh giới chứng đắc bởi bậc Sơ trụ Bồ Tát trong Viên giáo.

Tâm tạo ra cảnh thật, nên gọi là hạnh, tức nhất hạnh vậy. Đây là một câu giảng về từ ngữ cụ thanh tịnh hạnh đầy đủ hạnh thanh tịnh.

Hạnh ấy là gì?

Tâm tạo chân cảnh. Chữ tạo này có nghĩa là xuất hiện, hoặc hiển hiện. Trong tâm thanh tịnh hiển hiện cảnh giới, bất luận là Thánh hay phàm, chỉ là thanh tịnh giống hệt như nhau. Mười pháp giới không một pháp giới nào chẳng phải là Phật pháp giới, pháp nào cũng đều là Phật, đấy gọi là hạnh. Hạnh là hành động, hạnh là tác dụng, nhất hạnh.

nhất hạnh là gì?

Nhất chẳng phải là con số, nếu quý vị hiểu nó là con số thì quý vị đã lầm mất rồi.

Giống như trong Phẩm Phổ Môn nói ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, trong Kinh ấy là ba mươi hai, vì sao ở đây lại là một?

Quý vị phải hiểu ba mươi hai chính là một, một chính là ba mươi hai, một tức là nhiều, nhiều tức là một. Nhiều là vì ứng theo căn cơ, chúng sanh có cảm Ngài liền ứng, ứng theo căn cơ mà.

Nhất là bất động, như như bất động thì Ngài mới có thể ứng hết thảy căn cơ, tuy ứng hết thảy căn cơ, Ngài vẫn tịch diệt bất động. Vì thế, đối với chính Ngài thì nói là nhất hạnh, dựa theo mặt ứng cơ để nói thì là vô lượng vô biên hạnh. Đây chính là một và nhiều chẳng hai, là cảnh giới năng lẫn sở đều mất, đó gọi là nhất hạnh.

Nhưng chẳng nhập cảnh giới ấy thì nhất hạnh chắc chắn sẽ không có. Bồ Tát chứng đắc cảnh giới này, Thiện Tài Đồng Tử đến tham học, Ngài bèn đem điều chính mình đã tu, đã chứng để dạy cho Thiện Tài.

Dạy gì vậy?

Niệm Phật, cảnh giới của người niệm Phật, niệm Phật thù thắng.

Đoạn tiếp theo: Biện định tác dụng thù thắng. Ngài cho biết đắc pháp ấy có những công dụng gì. Xin hãy đọc Kinh Văn. Huệ nhãn biến quán nhất thiết cảnh giới, thiện xảo phương tiện, ly nhất thiết chướng. Huệ nhãn quán khắp hết thảy cảnh giới, phương tiện hay khéo, lìa hết thảy chướng.

Đây là đoạn thứ hai, biện kỳ thắng dụng. Đoạn Kinh Văn này rất dài, nhưng dễ hiểu, chẳng giống như đoạn trước. Đoạn Kinh Văn trong phần trước rất ngắn, ý nghĩa rất sâu, chẳng dễ hiểu, chỗ này dễ hiểu.

Chúng ta hãy đọc lời Chú Giải: Thứ hai, từ chữ huệ nhãn biến quán trở đi là biện định về tác dụng thù thắng. Đây là biện định về tác dụng lớn lao thù thắng.

Những điều được nói trong phần trước chính là bản thể của dụng, tức nhất hạnh tam muội. Những điều được nói trong phần Kinh Văn bên trên chính là bản thể của dụng, nếu dựa theo thể để nói thì thể là nhất hạnh tam muội.

Còn đoạn này là giảng về: Nay phần được nói ở đây là luận về tác dụng của thể. Phần trước là nói về bản thể của dụng, khác hẳn. Còn nay là luận về tác dụng của thể. Dụng thì không gì chẳng cùng tột.

Tức là thể của dụng là nhất hạnh tam muội. Từ thể khởi dụng, dụng ấy rộng lớn vô biên, dụng không có cùng tột. Nói đại lược thì có hai loại dụng. Tác dụng ấy rất nhiều, vô lượng vô biên chẳng thể nói trọn. Do vậy Phật vận dụng cách nói quy nạp những công dụng ấy thành hai loại lớn.

Một là nội dụng, hai là ngoại dụng. Trước hết nói đến nội dụng, tiểu đoạn chúng ta mới vừa đọc chính là Nội dụng. Nay, điều thứ nhất là trong hai câu đầu tiên có đến ba công dụng.

Đây chính là Nội dụng. Huệ nhãn quán trọn khắp hết thảy cảnh giới là công dụng của Phổ Nhãn. Trong phần trên đã nói Phổ Nhãn khởi tác dụng quán trọn khắp hết thảy cảnh giới, muốn thấy cảnh giới nào, cảnh giới ấy liền hiện tiền, chẳng muốn thấy thì cảnh giới ấy sẽ không còn nữa. Đây là tác dụng thuộc về chính mình, tức là tự thọ dụng.

Phương tiện hay khéo là tác dụng trí quang chiếu rạng. Bốn chữ thiện xảo phương tiện thường xuất hiện trong Kinh Luận. Ý nghĩa có sâu, cạn, rộng, hẹp khác nhau. Đối với người mới học như chúng ta mà nói, dùng cách nói gần gũi, rõ ràng nhất thì thiện là hợp với pháp tắc, phù hợp chừng mực, hợp quy củ, đấy là thiện.

Xảo là gì?

Xảo là xảo diệu hay khéo, thuận theo lòng muốn là xảo đấy.

Trong Luận Ngữ, Khổng Lão Phu Tử vào năm bảy mươi tuổi, đã nói: Tùy tâm sở dục, nhi bất du củ thuận theo lòng mong muốn, nhưng chẳng trái vượt quy củ, đấy chính là thiện xảo. Tùy tâm sở dục là xảo, bất du củ là chẳng vượt khỏi quy củ, rất hợp quy củ, rất hợp với lễ pháp, đấy chính là thiện. Vì thế, phương tiện phải đạt đến thiện xảo, đấy chính là trí huệ cao độ, nay chúng ta gọi là nghệ thuật cao độ, vừa khéo léo, lại vừa hợp quy củ.

Xảo mà chẳng hợp quy củ là không được, rất giữ quy củ, giữ khư khư quy củ, chẳng khéo léo thì cũng chẳng tốt đẹp. Nhưng nói thật ra, trong hai thứ ấy nếu xảo mà chẳng thiện thì chẳng thà thiện mà không xảo.

Vì sao vậy?

Thiện thì ai nấy đều giữ pháp tắc, xã hội sẽ có trật tự. Do vậy, trong hai chữ này, thiện là trọng yếu nên đem thiện đặt ra trước, tức thiện xảo, chứ không nói xảo thiện. Phương tiện phải lấy thiện xảo làm tiêu chuẩn. Đấy chính là tác dụng của trí quang chiếu rạng. Có thể thấy rằng trí quang chính là trí huệ cao độ, là nghệ thuật cao độ.

Lìa hết thảy chướng là tác dụng của hạnh thanh tịnh. Ý nghĩa này rất dễ hiểu, trong phần trước tôi đã nói cặn kẽ rồi. Tất cả hết thảy nghiệp chướng đều lìa hết, cho nên không sợ nghiệp chướng.

Đừng nói là nghiệp chướng đã tạo trong một đời này, tạo rất nhiều tội nghiệp, tội nghiệp chất chứa trong vô lượng kiếp quá khứ, trong Kinh Đức Phật thường nói: Nếu như tội nghiệp ấy có hình tướng, dẫu cho hình tướng ấy nhỏ như hình tướng của vi trần, khắp cả hư không cũng không thể chứa được hết tội nghiệp do chúng ta đã tạo trong vô lượng kiếp.

Lời này là thật đấy, chẳng phải giả đâu, Đức Phật không nói dối. Điều may mắn là những tội nghiệp đã tạo ấy không có dấu tích, không có hình tướng. Tuy là tạo rất sâu, rất rộng, nhưng phá trừ lại trọn chẳng khó khăn.

Đức Phật nêu lên một tỷ dụ, ví như nhà tối ngàn năm: Chúng ta vào trong một cái động hoang trên núi, mấy ngàn năm luôn tối om om, là chỗ tối tăm trước nay chưa hề có ánh đèn chiếu sáng.

Đây là tỷ dụ cho tội nghiệp đã tạo của một người vừa sâu vừa rộng, thời gian tích lũy rất dài, nhưng một ngọn đèn liền xóa tan. Quý vị thắp một ngọn đèn trong căn nhà tối, nhà không còn tối nữa, ngọn đèn ấy do tự tánh trí huệ mà có, nghiệp chướng liền tiêu.

Thế nhưng, quý vị phải hiểu rằng: Để khởi lên tự tánh trí huệ, nhất định phải có tâm thanh tịnh.

Kinh Kim Cang dạy: Tín tâm thanh tịnh thì sanh thật tướng. Thật tướng là do tự tánh bát nhã tỏ lộ ra. Tâm quý vị không thanh tịnh là không được, nghiệp chướng của quý vị chẳng tiêu được. Tiêu nghiệp chướng không có cách nào khác cả, phải tu cái tâm thanh tịnh.

Niệm Phật là trực tiếp tu cái tâm thanh tịnh, dùng một câu Phật hiệu để trừ sạch vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta, trong mười hai thời niệm tại đâu, nghĩ tại đó.

Chỉ cần chế ngự được nghiệp chướng ấy không cho nó khởi tác dụng, chỉ có một câu Phật hiệu này khởi tác dụng, có như vậy mới hòng đới nghiệp vãng sanh. Sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, thấy A Di Đà Phật, được Phật lực gia trì, công đức, trí huệ trong tự tánh của chúng ta sẽ hiện tiền, nghiệp chướng hoàn toàn tiêu trừ.

Đấy chính là chỗ chẳng thể nghĩ bàn của pháp môn Tịnh Tông. Do vậy, Kinh Hoa Nghiêm đề cao pháp môn niệm Phật, Cát Tường Vân là vị thứ nhất dạy chúng ta Ban Châu tam muội. Đoạn văn dài dưới đây là đoạn Kinh Văn nói về Ngoại dụng, trong phần Ngoại dụng có ba đoạn.

Quý vị hãy mở phần Chú Giải, trong Chú Giải có đoạn: Thứ hai, từ dùng thân thanh tịnh trở đi là nói về ngoại dụng. Thắng giải ấn trì, tùy tâm mà đi hay trụ. Đây là nói tổng quát, trong phần này chia thành ba đoạn.

Đoạn thứ nhất: Nói rõ tuy bất động nhưng có đi qua.

Hai là từ chữ tín giải lực trở đi, tuy không niệm nhưng trì.

Ba là từ trí huệ nhãn trở đi.

Đây là phần Kinh Văn được Chú Giải gọi là: Không đi qua đó mà thấy.

À. Nay chúng ta xem Kinh, phần Kinh Văn này tuy dài, nhưng dễ hiểu. Dùng thân thanh tịnh đến khắp hết thảy các cõi nước trong mười phương, cung kính cúng dường hết thảy Chư Phật. Đây là đoạn thứ nhất trong phần ngoại dụng. Bất động nhi vãng bất động nhưng đi qua đó.

Nếu giảng ý nghĩa này ở những nơi khác sẽ khó khăn hơn, nhưng nay chúng tôi giảng tại Đạo tràng này, tôi nghĩ rất dễ dàng, vì sao vậy?

Mọi người đều niệm A Di Đà Phật, đều niệm Vô Lượng Thọ Kinh, niệm A Di Đà Kinh.

Người trong Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mỗi ngày đến mười phương Thế giới cúng dường mười vạn ức Phật, họ đi bằng cách nào?

Bất động nhi khứ không động mà đến. Mười vạn ức. Nếu đến thăm viếng từng vị một sẽ chẳng đủ thời gian.

Làm sao thăm viếng mười vạn ức Phật cho được?

Hóa thân, đi cùng một lúc.

Cùng một lúc cúng dường hết thảy Chư Phật, nghe hết thảy Chư Phật thuyết pháp, sau đấy trở về, cái thân này bất động mà đi qua đó, bởi lẽ thân thanh tịnh. Người trong Thế Giới Tây Phương có năng lực ấy.

Nếu quý vị hỏi đến trình độ nào mới có năng lực ấy ư?

Chỉ cần vãng sanh thì sẽ có được năng lực ấy, dẫu cho vãng sanh Hạ Hạ Phẩm trong Phàm Thánh đồng cư độ cũng trọn đủ năng lực như vậy.

Ở đây, chúng ta thấy không phải chỉ là mười vạn ức Cõi Phật, người dịch Kinh Dịch thành mười vạn ức Cõi Phật là có dụng ý đặc biệt, dụng ý ở chỗ nào?

Thế Giới Cực Lạc cách Thế Giới Ta Bà mười vạn ức Cõi Phật, dụng ý là quý vị đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, muốn trở về thăm Ta Bà sẽ rất dễ dàng, dụng ý là ở chỗ này. Thật ra, năng lực không phải chỉ có vậy, mà là tận hư không, trọn pháp giới, vô lượng vô biên các Cõi Phật đều có thể đồng thời hóa thân đến cúng Phật, nghe pháp, độ sanh.

Chính người ấy không hề lìa khỏi A Di Đà Phật, vẫn ngồi nghe Kinh trong Pháp Hội của A Di Đà Phật, nhưng hóa thân của người ấy đến khắp mười phương Thế Giới để cúng Phật, nghe pháp, độ sanh. Ngoại dụng có năng lực ấy, từ điều này ta có thể thấy được rằng bậc Sơ trụ Bồ Tát trong Viên giáo có năng lực ấy. Lại xem tiếp câu dưới đó.

Dùng sức tín giải thường niệm hết thảy Chư Phật trong mười phương, dùng sức tổng trì để thọ trì hết thảy Phật Pháp trong mười phương. Hai câu này thuộc đoạn thứ hai. Đoạn thứ hai là chẳng niệm mà trì. Đấy gọi là niệm mà vô niệm, vô niệm nhưng niệm.

Ngài dùng gì để niệm?

Dùng sức tín giải, tin tưởng sâu đậm không nghi, thấu hiểu triệt để. Trong tâm thường có hết thảy Chư Phật, đấy chính là niệm Phật. Hết thảy cảnh giới không gì chẳng phải là cảnh giới Phật, đấy là niệm Phật.

Tuy chúng ta chưa nhập cảnh giới ấy, nhưng nếu có thể thường quán như vậy sẽ có ích rất lớn cho chúng ta. Kiểu niệm Phật này gọi là lý niệm. Niệm Phật có sự niệm và lý niệm, cho nên có sự nhất tâm và lý nhất tâm.

Câu tiếp theo: Dĩ tổng trì lực thọ trì thập phương nhất thiết Phật Pháp dùng sức tổng trì để thọ trì hết thảy Phật Pháp trong mười phương. Tổng trì là cương yếu, cương lãnh. Nắm được tổng cương lãnh thì tất cả hết thảy pháp đều nằm trong ấy, đấy gọi là tổng trì lực.

Kinh Hoa Nghiêm là tổng trì của hết thảy Kinh, cổ nhân dạy chúng ta, Kinh Hoa Nghiêm giống như Vua của các Kinh, xưng tụng Kinh Hoa Nghiêm là căn bản pháp luân, dùng một cái cây để sánh ví.

Kinh Hoa Nghiêm là gì?

Kinh Hoa Nghiêm là rễ, là gốc, gốc là thân cây chánh, còn hết thảy các Kinh do Đức Phật đã nói trong suốt bốn mươi chín năm chính là cành, nhánh, lá, hoa, quả của cái cây ấy, đều chẳng tách rời căn bản. Nếu tách lìa căn bản thì cái gì cũng chẳng có.

Do vậy, Cổ Đại Đức nói: Nếu quý vị thông đạt Hoa Nghiêm thì tất cả hết thảy Tông Môn, Giáo Hạ sẽ đều thông đạt toàn bộ, căn bản pháp luân mà. Hết thảy các Kinh chính là quyến thuộc của Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm là chủ nhân.

Nhưng Hoa Nghiêm quá lớn, chúng tôi giảng một lần cũng chẳng thể xong trong một thời gian ngắn, có tổng trì lực nào tốt hơn hay chăng?

Có chứ. Vô Lượng Thọ Kinh đấy. So với Hoa Nghiêm, Vô Lượng Thọ Kinh ngắn hơn rất nhiều, nhưng những nghĩa lý trong Vô Lượng Thọ Kinh hoàn toàn là Hoa Nghiêm. Nói cách khác, bản rút gọn của Kinh Hoa Nghiêm, tinh hoa của Hoa Nghiêm chính là Vô Lượng Thọ Kinh.

Chúng ta có thể nói Hoa Nghiêm Kinh là Chú Giải của Vô Lượng Thọ Kinh, vì thế, quý vị thông hiểu Kinh Hoa Nghiêm thì mới giảng Vô Lượng Thọ Kinh thật hay được, mới giảng có ý vị được. Nếu quý vị không thông hiểu Hoa Nghiêm, tuyệt đối chẳng thể giảng Vô Lượng Thọ Kinh viên mãn. Nói chung là sẽ bị thiếu sót.

Cổ Nhân từng giảo lượng, tức là so sánh, đến cuối cùng tìm ra được tổng cương lãnh của Kinh Hoa Nghiêm thì thấy nó chính là nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện của Vô Lượng Thọ Kinh.

Nguyện thứ mười tám là gì?

Mười niệm ắt sanh, quy kết thành một câu Phật hiệu, Nam Mô A Di Đà Phật. Vì vậy, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật này là sức tổng trì, vô lượng vô biên pháp môn được giảng bởi mười phương tam thế hết thảy Chư Phật đều chẳng vượt thoát phạm vi của danh hiệu này. Danh hiệu này có công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Do vậy, Tỳ Kheo Cát Tường Vân niệm A Di Đà Phật, phương pháp niệm Phật của Ngài là vừa niệm vừa nhiễu Phật. Ban Châu tam muội là đứng chứ không ngồi, nên Tỳ Kheo Cát Tường Vân nói riêng và hành nhân tu môn tam muội này nói chung đứng hay đi, chứ không ngồi xuống.

Đấy chính là chẳng niệm mà trì, trì hết thảy pháp, chứ không phải là một pháp. Tiếp theo là ý nghĩa thứ ba bất vãng nhi kiến không qua tới đó mà thấy.

Dùng mắt trí huệ thường thấy mười phương hết thảy Chư Phật. Thường kiến là thường xuyên thấy, chứ không phải là ngẫu nhiên thấy, thường thấy mười phương hết thảy Chư Phật.

Vì sao vị ấy có thể thấy được?

Do có trí huệ nhãn.

Do đoạn Kinh Văn này dài nên chia thành ba tiểu đoạn, câu này là nói tổng quát: Vị ấy thấy hết thảy Chư Phật.

Sau đây là những điều được nói riêng biệt, vị ấy thấy hết thảy Chư Phật, thấy những vị Phật nào?

Chúng ta xem Kinh Văn. Chẳng hạn như thấy một vị Phật ở Đông phương. Đây là nêu ra một thí dụ. Trong mười phương nêu ra một phương, thấy một vị Phật ở phương Đông.

Hai Phật, mười Phật, trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn Phật, ức Phật, trăm ức Phật, ngàn ức Phật, trăm ngàn ức Phật, na do tha ức Phật, trăm na do tha ức Phật, ngàn na do tha ức Phật, trăm ngàn na do tha ức Phật, cho đến thấy vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật.

Những con số này tôi không cần giải thích từng số một, những con số trong phần sau đoạn này là những con số thiên văn, quá lớn. Nếu quý vị muốn hiểu, hãy tra trong Phật Học Từ Điển sẽ thấy những số ấy đều có. Con số thiên văn quá sức là lớn, không có cách gì tính toán được.

Đối với những vị Phật do vị ấy thấy, chúng ta thường nói là Ngài thấy vô lượng vô biên Chư Phật. Đấy là phương Đông. Xem phần tiếp theo. Thậm chí thấy Phật nhiều như số lượng cực vi trần trong Cõi Diêm Phù Đề. Phạm vi Diêm Phù Đề nhỏ nhoi, nhỏ gần như một quả Địa Cầu của chúng ta. Trong Phật Pháp gọi địa cầu là Diêm Phù Đề Châu, rất nhỏ.

Trong hoàn cảnh nhỏ nhoi này, trông thấy Chư Phật nhiều như số cực vi trần, tức là thấy Chư Phật nhiều như số cực vi trần của cõi Diêm Phù Đề. Phật nhiều như số lượng của cực vi trần trong một tứ thiên hạ.

Diêm Phù Đề là một châu, bốn châu hợp thành một đơn vị thế giới, trong Kinh Phật giảng: Một quả núi Tu Di, bốn mặt có bốn đại châu, đấy gọi là một đơn vị thế giới tức một tứ thiên hạ. Phật nhiều như số lượng của cực vi trần trong tứ thiên hạ. Phật nhiều như số lượng cực vi trần trong một tiểu thiên thế giới.

Đây là nói số lượng nhiều, không cách nào tính đếm được. Một ngàn đơn vị thế giới hợp lại thì gọi là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới hợp lại gọi là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới hợp lại gọi là một đại thiên thế giới. Tiểu thiên thế giới cực vi trần số Phật, trung thiên thế giới cực vi trần số Phật, đại thiên thế giới cực vi trần số Phật.

Phật nhiều như số lượng cực vi trần trong một tiểu thiên thế giới, Phật nhiều như số lượng cực vi trần trong một trung thiên thế giới, Phật nhiều như số lượng cực vi trần trong một đại thiên thế giới. Một đại thiên thế giới là khu vực giáo hóa của một Đức Phật. Phật nhiều như số lượng cực vi trần trong mười Cõi Phật.

Một Phật sát là một đại thiên thế giới, mười Phật sát là mười đại thiên thế giới. Trăm Phật sát là một trăm đại thiên thế giới. Một ngàn Phật sát là một ngàn đại thiên thế giới, trăm ngàn Phật sát là trăm ngàn đại thiên thế giới.

Phật nhiều như số lượng cực vi trần trong trăm Cõi Phật, trăm ức Cõi Phật, ngàn ức Cõi Phật, trăm ngàn ức Cõi Phật, na do tha ức Cõi Phật, cho đến thấy bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số Phật.

Đoạn này nói vị ấy thấy rất nhiều Phật. Văn tự trong đoạn này nhằm hình dung tột bậc vị ấy thấy được Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có cách nào tính đếm được. Như Chư Phật thấy nơi phương Đông, thấy Chư Phật trong phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới cũng giống như thế.

Trong phương Đông đã nói chi tiết thì chín phương khác chẳng cần phải nói chi tiết, cứ dựa theo đó mà suy. Chúng ta biết rằng bậc Sơ trụ Bồ Tát trong Viên giáo có huệ nhãn, thiên nhãn chẳng thể nghĩ bàn như thế ấy. Như Lai có ngũ nhãn, Bồ Tát cũng có ngũ nhãn, nhưng ngũ nhãn của Bồ Tát không viên mãn như Như Lai.

Vị Sơ trụ Bồ Tát này có ngũ nhãn, ở đây chúng ta thấy đã chẳng thể nghĩ bàn rồi, huống hồ quả địa Như Lai ư?

Xem đoạn Kinh Văn tiếp theo: Đối với tất cả Chư Phật do vị ấy đã thấy trong mỗi một phương. Ở đây lại nói tỉ mỉ hơn, trong phần trên chỉ nói thấy Chư Phật. Nay lại nói tới hình dạng của mỗi một vị Phật, Ngài thấy tất cả Chư Phật… các thứ sắc tướng. Sắc tướng của Phật. các thứ hình mạo.

Chúng ta thường nói: Phật Phật đạo đồng.

Tướng mạo Chư Phật giống hệt nhau, làm sao có hai hình dạng cho được?

Ở đây, Kinh chép: Các thứ sắc tướng.

Có. Có các thứ sắc tướng.

Các thứ sắc tướng nên hiểu như thế nào?

Phật ứng hóa trong mười pháp giới, giống như sắc thân của Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trong thế giới của chúng ta hiện thời được gọi là Liệt Ứng Thân, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp phụ, thân cao trượng sáu. Trong Kinh nói Tỳ Lô Giá Na Phật có vô lượng tướng, nơi mỗi tướng có vô lượng hảo, thân tướng ấy to lớn.

Trong bài kệ Tán Phật có câu: Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh Tứ Đại hải thì làm sao ứng thân này sánh bằng được?

Do vậy, bèn có các thứ sắc tướng, các thứ hình mạo. Nói thật ra, từ năng hiện thì thấy là một, từ sở hiện thì thấy khác nhau. Sở hiện nhằm ứng theo căn cơ của chúng sanh, cho nên Phật hiện ra sắc tướng, hình mạo khác nhau.  Các thứ thần thông, các thứ thọ dụng, các thứ vui chơi. Phật giáo hóa chúng sanh là du hý, du hý thần thông.

Du hý ngụ ý không coi đó là thật, chẳng giống như chúng ta chuyện gì cũng rất chấp trước, đều coi là thật. Phật, Bồ Tát không coi là thật như thế, đều là vui chơi, đều là diễn tuồng. Vì thế, các Ngài rất tự tại, không có được, mất, không âu lo, cũng không vướng mắc, các Ngài đang diễn tuồng mà.

Các thứ Pháp Hội Đạo tràng trang nghiêm. Chữ chúng hội chỉ các hoạt động cùng đại chúng giảng Kinh, thuyết pháp, trong ấy đương nhiên cũng có người hướng dẫn đại chúng tu hành, phương thức rất ư là nhiều. Do các Ngài tùy loại hiện thân, không đâu chẳng hiện thân, hiện ra những thân phận khác nhau, nghề nghiệp khác nhau, công việc khác nhau, chúng hội Đạo tràng của các Ngài khác nhau.

Cuộc sống của họ chính là Đạo tràng của họ, công tác của họ cũng là Đạo tràng của họ. Họ xử thế, đãi người, tiếp vật cũng là Đạo tràng của họ. Trang nghiêm là thực hiện mỹ mãn, tức là thiện xảo phương tiện như đã nói trong phần trước. Đấy là trang nghiêm.

Các thứ quang minh chiếu rạng vô biên. Câu này nói tới trí huệ cao độ. Trong cuộc sống, trong công việc, trong đối xử với mọi người, đối sự, tiếp vật, đều biểu hiện nghệ thuật trí huệ cao độ. Các thứ cung điện trang nghiêm quốc giới. Đây là nói về y báo, tức hoàn cảnh sống của các Ngài. Các thứ thọ lượng, thị hiện có dài, có ngắn.

Đây là chánh báo. Tu là trường dài, tu đoản là dài ngắn. Thọ mạng dài hay ngắn đều khác nhau.

Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta: Khi Thế Gian Tự Tại Vương Phật thị hiện thì thọ mạng của Ngài là bốn mươi hai kiếp, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trong thế gian này của chúng ta với thọ mạng tám mươi tuổi, dài ngắn khác nhau, đều là thị hiện.

Thuận theo các thứ ưa thích của chúng sanh. Đây là nói rõ về các thứ thị hiện nhằm hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Kinh Lăng Nghiêm bảo là tùy tâm chúng sanh, ứng sở tri lượng thuận theo tâm của chúng sanh để thích ứng với khả năng nhận biết của họ.

Thị hiện các môn thành Chánh Giác. Giống như một thí dụ đã được nêu trong Kinh Vô Lượng Thọ, tám tướng thành đạo. Đây là nêu một thí dụ trong các thứ thị hiện.

Trong đại chúng hiện rộng rãi các thần biến, hiện tướng sư tử rống, nhằm độ thoát chúng sanh. Câu cuối trong đoạn này là lời tổng kết. Đức Phật bất luận thị hiện thân phận nào, nam, nữ, già, trẻ, các ngành, các nghề, mục đích thị hiện chỉ là một, hiện tướng sư tử hống nhằm độ thoát chúng sanh, nhằm lý do ấy.

Biểu hiện trong cuộc sống, trong việc làm, trong ứng xử, đều nhằm giúp cho người khác giác ngộ, giúp cho chúng sanh phá mê, khai ngộ, lìa khổ, được vui, nhằm mục tiêu ấy. Vì thế, tuy đoạn Kinh Văn này rất dài, nhưng rất dễ hiểu, hoàn toàn là một thứ so sánh. Hôm nay thời gian đã hết, chúng tôi giảng đến đây.

Ngày mai tôi có việc phải sang Tân Gia Ba và Mã Lai một chuyến, bên Mã Lai xây dựng Di Đà Thôn, họ xây dựng, muốn tôi đến xem.

Tân Gia Ba Tịnh Tông Học Hội mới mua được một Đạo tràng, tôi sang mở lớp bồi huấn bồi dưỡng, huấn luyện lần thứ nhất, tìm hiểu xem nên làm như thế nào?

Mồng mười tôi trở về, mấy bữa giảng Kinh đều theo lệ thường, mong các vị đồng tu đều đến, do Pháp Sư Ngộ Hữu giảng tại đây.

Không cần biết giảng gì, mọi người đều đến nghe, Kinh dạy văn huân rất quan trọng. Quý vị nghe càng nhiều, nghe càng lâu, sẽ phát khởi thiện căn, không nhất định lúc nào, không nhất định do ai giảng, không nhất định giảng điều gì, hễ thiện căn của quý vị được động đến, phát khởi thì quý vị sẽ hoát nhiên đại ngộ.

Nếu quý vị không đến nghe sẽ không có cơ hội ấy, đến nghe giống như rút thăm lãnh thưởng vậy.

Rất có khả năng trúng thưởng. Quý vị không đến, quý vị không rút thăm thì vĩnh viễn không có cơ hội trúng thưởng. Vì thế, có cơ hội nghe Kinh phải tận hết sức để tới nghe.

A. Cảm ơn mọi người.

A Di Đà Phật!

***