Ñeä Töû Quy laø tri thöùc cuûa ngöôøi xöa ñeå laïi.
Toå Tieân nhaân haäu giuùp ñôõ cho neân
Quoác Gia, xaõ hoäi, ñôøi soáng cuûa Quyù vò
khi thöïc haønh seõ ñöôïc keát quaû toát ñeïp

detuquy.edu.vn

KINH TỨ THẬP HOA NGHIÊM PHẨM PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN, CHƯƠNG CÁT TƯỜNG VÂN TỲ KHEO GIẢNG GIẢI - TẬP SÁU

KINH TỨ THẬP HOA NGHIÊM

PHẨM PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN,

CHƯƠNG CÁT TƯỜNG VÂN TỲ KHEO

GIẢNG GIẢI

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP SÁU
 

Xin mở quyển Kinh, trang thứ mười sáu, hàng thứ hai từ dưới lên, xin đọc Kinh Văn: Thiện nam tử! Ngã duy đắc thử Ức Niệm Chư Phật bình đẳng cảnh giới vô ngại trí huệ phổ kiến pháp môn.

Này Thiện nam tử! Ta chỉ đạt được pháp môn ức niệm Chư Phật bình đẳng cảnh giới vô ngại trí huệ phổ kiến này. Trong câu thứ nhất này, Tỳ Kheo Cát Tường Vân nói cho Thiện Tài Đồng Tử biết pháp môn do chính Ngài tu hành chứng quả, nêu danh xưng của pháp môn này. Ý nghĩa bao hàm trong ấy rất sâu.

Trong tiết này, Đại Sư Thanh Lương cũng  Chú Giải cho chúng ta không ít, chúng ta hãy xem lời Chú Giải của Ngài. Đây là khoa mục lớn thứ bốn. Trong mỗi đoạn Kinh Văn chép về một lần tham học, nói chung, được chia thành sáu đoạn, trong phần trước tôi đã trình bày với quý vị rồi. Đây là đoạn thứ bốn.

Tiểu đề mục của đoạn thứ bốn là: Tự mình khiêm hư, đề cao người khác thù thắng hơn ta. Đối với chính mình thì khiêm hư, đề cao người khác. Thắng là thù thắng.

Chẳng những thù thắng, mà còn cao siêu hơn ta rất nhiều, tức là tự khiêm, tôn xưng người khác. Trong phần này gồm hai đoạn, đoạn thứ nhất là tự khiêm, đoạn thứ hai là đề cao người khác. Đây là đoạn thứ nhất trong hai tiểu đoạn ấy. Trước hết, tự khiêm, bảo Thiện Tài ta chỉ biết một pháp.

Ngài Cát Tường Vân khiêm hư nói: Trong vô lượng pháp môn, ta chỉ biết một môn, ý nghĩa rất sâu xa. Năm mươi ba lần tham học, năm mươi ba vị thiện tri thức đều cùng hành xử theo kiểu này.

Điều này nhằm bảo ban chúng ta: Chúng ta tu học muốn thành tựu, muốn khai ngộ, muốn chứng quả, thậm chí chúng ta niệm Phật muốn được vãng sanh, thật sự muốn đạt đến mục đích ấy thì quý vị phải biết thâm nhập một môn mới có thể đạt đến mục tiêu ấy. Nếu quý vị học nhiều pháp môn chỉ có thể nói là quý vị học những kiến thức Phật Học thông thường, trong thế gian này có thể khoe khoang là bậc học rộng nghe nhiều.

Xét về địa vị trong thế gian, quý vị có thể giành được nhiều học vị tiến sĩ, nhưng chẳng liên can gì tới liễu sanh tử, thoát Tam Giới cả. Nói cách khác, quý vị vẫn phải tiếp tục sanh tử luân hồi.

Điều này nhằm chỉ rõ, nhắc nhở chúng ta: Muốn thành tựu thì chỉ có một phương pháp duy nhất, tức là thâm nhập một môn. Do vậy… tự khiêm, nói ta chỉ biết một pháp, nhằm kết thúc phần nói về chính mình. Đây là phần tổng kết thành tích tu hành của chính mình.

Sau đó. Đây là đoạn thứ hai, Kinh Văn của đoạn thứ hai thuộc phần sau. Đề cao người khác vượt trỗi ta, biết nhiều. Đề cao người khác, bọn họ học rộng nghe nhiều, biết nhiều hơn tôi. Ý nghĩa chính là…

Tăng trưởng ước vọng muốn tiến lên những địa vị cao cả hơn. Nay lời Chú Giải tiếp theo đây nhằm giải thích danh xưng của pháp môn được chứng đắc bởi Cát Tường Vân Bồ Tát. Có danh đương nhiên có nghĩa. Danh và nghĩa nhất định phải tương ứng.

Nay, điều thứ nhất chính là kết lại lời dạy về danh xưng. Kết là tổng kết. Người ta đến tham phỏng, thiện tri thức đem những sự từng trải trong tu học cũng như những kinh nghiệm, thành tựu của chính mình cùng với đức dụng, tác dụng thù thắng lớn lao ấy nói hết với Thiện Tài.

Cuối cùng, tổng kết lời dạy bằng danh xưng của pháp môn. Cảnh giới bình đẳng của hết thảy Chư Phật. Trước hết, giải thích câu này.

Câu thứ nhất: Tức là pháp được quán theo chiều ngang trọn khắp mười phương, theo chiều dọc tột cùng ba đời, nghĩa thông suốt mười thân, nên gọi là hết thảy.

Kinh Hoa Nghiêm nói đến Thập Thân mười thân, nhưng trong các Kinh Luận đại thừa, Đức Phật thường nói tới ba thân: pháp thân, báo thân, ứng hóa thân. Hoa Nghiêm dùng con số mười để tượng trưng cho sự viên mãn. Vì thế nói tới mười thứ thân, những điều này trong phần trước tôi đã đều nói qua. Mười thứ thân chính là từ ba thân mở rộng ra, quy nạp lại thì chẳng ngoài ba thân.

Phép quán ở đây là quán cảnh giới bình đẳng của Phật, nên gọi là sở quán pháp được quán, đối tượng được quán. Trong câu này, cảnh giới sâu rộng vô hạn, hoành cai thập phương là nói tới không gian, thụ cùng tam tế là nói thời gian.

Tam tế là nói tới quá khứ, hiện tại, vị lai, quá khứ không khởi đầu, vị lai không kết thúc. Trong không gian và thời gian vô hạn, hết thảy Chư Phật đều là cảnh giới để quán. Nếu nói tỉ mỉ thì bao gồm cả mười thân Phật, mười thân chính là vô lượng thân.

Quý vị phải hiểu rằng đức dụng nơi quả địa, giống như Kinh Lăng Nghiêm đã nói: Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng. Tùy theo tâm của chúng sanh mà thị hiện, chỉ dạy sao cho phù hợp với khả năng nhận biết của họ. Chúng sanh trong mười phương Thế Giới có cảm thì Phật liền ứng, gọi là cảm ứng đạo giao, giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát trong Phẩm Phổ Môn.

Nói thật ra, Phật đâu có thân. Phật không có thân. Do vì không có thân nên có thể tùy loại hiện thân, có thể thuận theo tâm chúng sanh mà hiện vô lượng thân. Vô lượng thân được quy nạp thành mười loại lớn, cho nên gọi là thập thân. Thập thân lại quy nạp thành ba thân.

Cho nên nói là hết thảy. Vì thế, trong hết thảy đó, nói thật sự ra là vô lượng thân vậy. Chính là phổ quán Nhất Hạnh tam muội đã nói trong phần trên. Quán pháp thân mười phương Chư Phật cũng thông với các thân khác, chân thân, ứng thân vô ngại. Mười thân viên dung đều là cảnh được niệm.

Ở đây, chúng ta phải đặc biệt chú ý: Ngài dạy cho chúng ta phương pháp niệm Phật.

Niệm Phật rất bao la, rất sâu, rất rộng, chẳng phải như chúng ta mỗi ngày cầm xâu chuỗi: A Di Đà Phật, A Di Đà Phật.

Chúng ta đọc chương Kinh Văn này, hãy nên thấu hiểu phương pháp niệm Phật, hãy nên chú tâm quán sát, học theo phương pháp niệm Phật, thấy Ngài niệm như thế nào?

Trong một câu Phật hiệu của Ngài, vô lượng thân tướng của mười phương ba đời tất cả hết thảy Chư Phật đều niệm hết.

Như vậy thì Ngài niệm vị Phật nào?

Trong phần trước tôi đã nói rồi: Ngài niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Tôi đã giới thiệu với quý vị trong phần trước. Đây chính là một chính là hết thảy, hết thảy chính là một. Do vậy, lần tham học thứ nhất trong năm mươi ba lần bắt đầu bằng niệm A Di Đà Phật cho tới lần tham học cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng Mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc.

Ý nghĩa ấy rất sâu, chúng ta phải thấu hiểu: Từ đầu đến cuối chỉ là một câu A Di Đà Phật niệm cho đến tột cùng. Trong khi ấy, tham học chẳng trở ngại niệm Phật, niệm Phật chẳng trở ngại tham học. Nói thật ra, tham học là cuộc sống, là công việc.

Ý nghĩa này nhằm bảo chúng ta: Niệm Phật chẳng trở ngại cho cuộc sống, chẳng trở ngại công việc, mà công việc, cuộc sống chẳng trở ngại niệm Phật. Trong Kinh Tứ Thập Hoa Nghiêm, không điều gì chẳng nhằm nói rõ chuyện này.

Nhưng trong cuộc sống, trong công việc, quý vị quán sát như thế nào, lãnh hội như thế nào để ở trong ấy quý vị sẽ biến đổi cái tâm, thay đổi cảnh giới, quý vị viên mãn thành Phật, ý nghĩa này khẩn yếu lắm.

Do vậy, đây chính là điều đã được nói trong phần trước, chữ thượng ở đây chỉ cho phổ quán nhất hạnh tam muội đã được nói trong đoạn Kinh Văn trong phần trước. Quán kỳ pháp thân thập phương Chư Phật, mười phương bao gồm ba đời, mười phương ba đời hết thảy Chư Phật.

Nói tới pháp thân, còn những thân khác thì bảo chân ứng vô ngại. Chân là báo thân, ứng là ứng hóa thân, hoàn toàn nằm trong một câu Phật hiệu. Quý vị thấy tâm người ta lớn như vậy đó, tâm lượng ấy rộng nhiều.

Còn như chúng ta niệm Phật trong tâm chỉ nắm níu A Di Đà Phật, chỉ cảm thấy A Di Đà Phật thân quen, chèo kéo Ngài, tâm nhãn nhỏ nhoi hết sức, chẳng để cho người thứ hai nào được lọt vào đấy.

Niệm Phật như thế thì làm sao thành công được?

Vì thế, người ta niệm như vậy càng niệm tâm càng rộng, càng niệm tâm càng lớn, thật sự là tâm bao thái hư, lượng châu sa giới tâm trùm thái hư, lượng trọn khắp các cõi nước với số lượng nhiều như cát.

Thập thân viên dung, giai thị sở niệm. Mười thân viên dung đều là cảnh được niệm. Ngài không niệm từng thứ một mà mỗi một câu A Di Đà Phật đều niệm trọn hết.

Chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa này, rồi suy nghĩ xem cách niệm Phật của chúng ta ra sao?

Khi chúng ta niệm Phật dùng cái tâm nào?

Nếu nói chúng ta niệm Phật, A Di Đà Phật. A Di Đà Phật.

Chuyện gì cũng không nghĩ tới, chuyện gì cũng không biết thì là cái tâm gì vậy?

Đấy là tâm vô minh, vẫn là bị vô minh ngăn lấp. Một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng, đấy là tâm trạo cử, lộn tùng phèo, đều chẳng thể thành công.

Quý vị thấy người biết niệm Phật, người ta niệm như thế nào?

Họ dụng tâm như thế nào?

Một câu Phật hiệu là tận hư không, trọn pháp giới, là cảnh giới bình đẳng của Chư Phật. Tiếp đó, Đại Sư giảng về sự bình đẳng.

Bình đẳng có hai thứ. Một là nói trên mặt sự, một là giảng theo mặt lý. Trước hết nói đến sự. Bình đẳng theo mặt sự. Chữ đẳng ở đây là bình đẳng. Nếu nói theo cách bây giờ thì nói về bình đẳng trên mặt sự. Nhất thiết Chư Phật lợi lạc, ý nhạo, thọ dụng, biến hóa nhất thiết tác nghiệp tất giai đồng cố.

Hết thảy sự lợi lạc, lòng ưa thích, thọ dụng, biến hóa hết thảy tác nghiệp của Chư Phật đều giống như nhau. Đây là nói trên mặt sự, sự rất nhiều, nói chẳng hết. Ở đây chỉ nêu vài thí dụ. Lợi lạc, lợi là lợi ích chúng sanh.

Dùng phương cách nào để tạo lợi ích cho chúng sanh, có thể khiến cho chúng sanh thật sự được vui sướng?

Hết thảy Chư Phật đều do ý nghĩa này mà biểu hiện nơi mặt sự.

Ý nhạo nếu nói theo cách bây giờ thì: Một là trong cuộc sống vật chất, nếu cuộc sống vật chất được đầy đủ trọn vẹn thì là lợi lạc.

Hai là cuộc sống tinh thần được đầy đủ, trọn vẹn.

Đấy chính là ý nghĩa của từ ngữ ý nhạo được diễn tả qua sự thọ dụng kế tiếp. Hai phương diện thọ dụng đều có, bất luận là thọ dụng vật chất hay thọ dụng tinh thần đều có. Sáu chữ này tức lợi lạc, ý nhạo, thọ dụng có thể nói là đã bao gồm trọn vẹn tất cả tâm nguyện của hết thảy hữu tình trong chín pháp giới.

Kế đó, Đại Sư cho biết Phật dùng phương pháp nào để thỏa mãn hết thảy chúng sanh?

Biến hóa hết thảy tác nghiệp, hóa hiện đấy. Tác là tạo tác, nghiệp là sự nghiệp, đều giống nhau. Trên nguyên lý, nguyên tắc thì không hai, không pháp nào chẳng nhằm lợi lạc chúng sanh.

Nhưng cách làm của Phật thì thiên biến vạn hóa, chúng ta chẳng thể nào suy nghĩ, tưởng tượng được, như năm mươi ba lần tham học chỉ là nêu thí dụ mà thôi.

Năm mươi ba lần tham học là lợi lạc, ý nhạo, thọ dụng, biến hóa hết thảy tác nghiệp của hết thảy Chư Phật, năm mươi ba lần tham học nhằm nói lên điều này.

Trong đây có chánh diện, chúng ta gọi là thiện, tức người lành làm việc tốt, mà cũng có phản diện, như chúng ta thấy kẻ ác làm việc ác, đấy là cảnh giới của bọn phàm phu chúng ta.

Nhưng trong cảnh giới của Bồ Tát thì khác hẳn: Thuận hay nghịch đều là thiện tri thức, thiện hay ác đều thành tựu vô lượng công đức. Phàm phu không thấy được, trong mắt phàm phu thấy những kẻ ấy là người ác, trong mắt Bồ Tát thấy họ là đại thiện tri thức. Trong Kinh này cũng có trường hợp ấy.

Cam Lộ Hỏa Vương suốt ngày từ sáng đến tối giết người, giết người không chớp mắt, chúng ta coi ông ta là Ma Vương, ác ma. Trong mắt Thiện Tài, ông ta là đại thiện tri thức.

Đại thiện tri thức giết người?

Vì sao giết người?

Tiêu nghiệp chướng cho họ, siêu độ họ, chúng ta có biết hay chăng?

Nếu chẳng phải là người có công phu, có cảnh giới tương đương, chắc chắn sẽ thấy không ra. Thật ra, tuy lý ấy rất sâu, nhưng không phải là chúng ta chẳng thể lãnh hội. Quý vị phải đọc kỹ Liễu Phàm Tứ Huấn, thật sự đọc thuộc Liễu Phàm Tứ Huấn, đọc hiểu, tôi tin rằng khi quý vị đọc Kinh Hoa Nghiêm sẽ thấu hiểu được mấy phần cảnh giới ấy.

Cư Sĩ Liễu Phàm nói, thật ra không phải là ông ta nói, mà là Thiền Sư Vân Cốc nói:

Có người thỉnh giáo ông ta: Thế nào là thiện?

Thế nào là ác?

Thiền Sư Vân Cốc hỏi học trò: Các ông đều là người có học, thế nào là thiện?

Thế nào là ác?

Bọn họ thưa: Khen ngợi người ta, tưởng thưởng, khích lệ người ta, ca ngợi người ta là thiện. Đánh người, chửi người là ác.

Thiền Sư Vân Cốc lắc đầu: Không hẳn vậy.

Nếu trong tâm các ông giữ cái nhìn lệch lạc, ông khen ngợi ai đó, bợ đỡ người ta, trong tâm có mong cầu, có coi là thiện được hay chăng?

Bất thiện. Vì các ông có mục đích. Thầy giáo hằng ngày đánh con cái người khác, đánh đập học sinh, nhằm dạy cho nó tốt đẹp hơn. Vậy thì đánh chửi kẻ khác không phải là ác, mà thật sự là thiện. Điều này cho thấy nhiều người trong thế gian nhìn lầm thị phi, thiện ác, rất nhiều người nhìn ngược ngạo.

Giống như Quán Trưởng của chúng ta ở chỗ này mười mấy năm, hai mươi năm, rất nhiều người trong số quý vị thân cận bà ta, cũng có rất nhiều người phê bình bả, bà ta có thật sự là ác hay không?

Cũng rất nhiều vị thấy bà ta ác, tôi thấy bà ta rất thiện. Nhìn vào biểu hiện, quý vị thấy dường như bà ta không đếm xỉa lý lẽ, hống hách, chuyên quyền, rất nhiều người không hiểu bả. Những năm qua tôi tu học có được một chút thành tích như thế này, được một chút lợi ích như thế này hoàn toàn nhờ Quán Trưởng đắc lực, nhờ quen với cách xử sự của bà ta.

Người ta cúng dường tiền bạc cho tôi, bà ta cần, tôi đều đưa hết, bà ta dùng làm gì tôi chẳng biết tới, tốt hay chăng?

Tốt lắm chứ. Khiến cho ý niệm tham tài của tôi bị đoạn sạch, tôi được lợi ích rất nhiều.

Người ta cúng dường tôi, quý vị có cần hay không?

Quý vị không cần. Quý vị không đoạn cái tâm tham cho tôi, bà ta có biện pháp đoạn được cái tâm tham của tôi. Danh văn, lợi dưỡng, thứ gì bà ta cũng đều lấy hết, cai quản đại chúng, quản người, lo liệu công việc, chuyện gì bà ta cũng trông coi, tôi chuyện gì cũng không phải lo tới, hỏi gì cũng không được, hễ hỏi tới bà ta liền nổi nóng, toan chửi mắng người ta.

Quý vị thấy bà ta rất dữ, tôi thấy bà ta rất tốt, vì sao vậy?

Thành tựu cái tâm thanh tịnh cho tôi, thành tựu nhẫn nhục Ba la mật cho tôi, tôi được Quán Trưởng thành tựu Lục Ba la mật cho tôi. Không có vị thiện tri thức như vậy thì quý vị phải hiểu là chẳng thể nào đoạn trừ danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần dễ dàng như vậy được.

Khi Đạo tràng này được tạo dựng, nếu tôi muốn quản lý, chắc chắn tôi sẽ vướng trong danh văn, lợi dưỡng. Nói thật lòng, tuy trong đời này tôi sẽ rất có thể diện, nhưng tương lai vẫn là lục đạo luân hồi.

Tôi luân hồi trong lục đạo thì bà ta cũng luân hồi trong lục đạo, bà ta có công đức gì đâu?

Bà ta giúp tôi đoạn trừ danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, nên có công đức, tôi có thể vượt thoát Tam Giới, cho nên A Di Đà Phật tiếp dẫn bà ta vãng sanh.

Người thế gian làm sao thấy được điều này?

Nếu tôi không nói toạc ra, quý vị sẽ đều nghĩ không thông.

Cho rằng Quán Trưởng hung tợn như vậy, từ sáng đến tối một câu Phật hiệu cũng không niệm thì làm sao bà ta vãng sanh được?

Quý vị thật sự hiểu rõ, đương nhiên bà ta vãng sanh, A Di Đà Phật đương nhiên hộ trì bà ta. Thành tựu của tôi chính là thành tựu của bà ta, nếu tôi chẳng thành tựu thì bà ta cũng chẳng có được một chút công đức của người hộ trì. Điều này giống như trồng cây. Cây đã mọc to sẽ lắm trái, thu hoạch rất nhiều.

Người trồng cây vui sướng, bà ta có thu hoạch. Dẫu trồng cây cho to mà đến cuối cùng cây chết khô, chẳng sanh ra thứ gì, thì một tí công đức bà ta cũng không có. Bà ta trồng cây thành công như thế, đơm bông, kết quả.

Đơm bông là pháp môn Tịnh Tông của chúng ta, Vô Lượng Thọ Kinh và phương pháp niệm Phật được phổ biến rộng rãi trên toàn Thế Giới, đấy chính là đơm bông. Hiện nay, chúng ta mấy lượt tổ chức lớp bồi dưỡng huấn luyện tại Tân Gia Ba, huấn luyện học sinh đông đảo như thế, đấy là kết hạt, khiến cho chánh pháp này, pháp môn Tịnh Tông này được vĩnh viễn kế tục.

Bà ta đã thật sự thực hiện công cuộc hộ trì chánh pháp, tiếp nối huệ mạng của Phật. Những thứ bốn tướng ác ấy chính là điều được nói tới trong đoạn Kinh này, đều là do Phật, Bồ Tát biến hiện, đóng giả, nhằm thành tựu người khác.

Nếu bà ta làm như thế này đối với quý vị: Suốt ngày từ sáng tới tối, đối với tôi cung cung kính kính, vâng lời, hầu hạ, tôi cũng sẽ đọa lạc, mà quý vị cũng đọa lạc luôn. Do vậy, nếu quý vị là người biết học thì nghịch hay thuận đều là thiện tri thức, rất khó.

Vì vậy, tới khi A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, thay bà ta an bài hậu sự, tôi mới hoảng nhiên đại ngộ, bà ta đến diễn tuồng, bà ta không phải thật sự là như vậy, bà ta là Bồ Tát từ Tây Phương Cực Lạc Thế Giới trở lại nơi đây.

Vì vậy, lúc lâm chung A Di Đà Phật lo lắng cho bà ta. Đây là điều chúng ta chưa từng nghe nói tới. Khi chúng tôi muốn may y, A Di Đà Phật báo cho bà chủ tiệm may Tăng phục biết, kêu bà ta may gấp cho chúng tôi, từ trước đến nay chưa từng nghe nói tới chuyện này. Ngày hôm ấy, bà chủ tiệm đo áo cho chúng tôi, nói ra chuyện này, giữa trưa A Di Đà Phật báo cho bà ta biết, chúng tôi đều ngớ người ra.

Do vậy, Quán Trưởng là Bồ Tát từ Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thị hiện, trong quá khứ chúng ta không biết, có hiểu lầm bà ta đôi chút, nay nếu đã biết mà vẫn hiểu lầm thì quý vị không phải là người niệm Phật. Tuy quý vị niệm A Di Đà Phật, quý vị vẫn là hủy báng Phật, Bồ Tát, công đức niệm Phật của quý vị hoàn toàn bị tiêu sạch, không còn nữa.

Hết sức chẳng dễ dàng, hộ trì suốt ba mươi năm, khiến cho Tịnh Tông được hoằng dương khắp cả Thế Giới, ảnh hưởng đến đời sau. Ảnh hưởng ấy hết sức sâu, hết sức rộng lớn. Do vậy, đây là biến hóa, tác nghiệp, thuộc về loại hình thức này.

Các vị ấy biến hóa thành những hình tượng nào?

Không nhất định. Hoàn toàn là để độ chúng sanh, cần phải dùng tới phương pháp nào thì bèn dùng phương pháp ấy để đối phó. Nói chung, phương pháp lành cũng tốt, mà phương pháp ác cũng hay.

Thuận cảnh cũng tốt, mà nghịch cảnh cũng hay, đối tượng hóa độ đều được lợi ích, họ đều có thể lãnh ngộ, chúng ta thường gọi là khai ngộ. Họ đều có ngộ xứ, đều có thể biến đổi, trừ sạch căn bệnh, tập khí, thành tựu thanh tịnh, bình đẳng, giác, công phu nằm ở chỗ này. Những thứ vừa được nói tới trong đoạn Kinh Văn này như lợi lạc, ý nhạo đều nằm trong ý này.

Chẳng những Quán Trưởng đã thành tựu được một sự nghiệp lớn lao, nhân duyên lớn lao, mà khi lâm chung bà ta còn trao cho chúng ta một lời chỉ dạy cực lớn, dạy chúng ta niệm Phật thì nhất định chính mình phải có năng lực, phải nắm chắc sẽ tự được vãng sanh. Đấy là lời chỉ dạy bà dành cho chúng ta.

Vì sao vậy?

Nếu như lâm chung không nắm chắc vãng sanh, nằm bệnh trên giường thì giống như thầy Lý đã nói: Một vạn người niệm Phật, được vãng sanh cũng không tới hai ba người mà thôi. Chắc chắn đại đa số chẳng thể vãng sanh.

Do nguyên nhân nào?

Quý vị đọc Sức Chung Tu Tri sẽ biết ngay, chính là vì lúc lâm chung không đúng pháp. Dẫu cho người ấy niệm giỏi cho mấy, rất dễ dàng vì một động tác không chú ý liền bị lôi vào lục đạo.

Quán Trưởng thị hiện lúc lâm chung có phước báo, người xuất gia chúng ta đông đảo như thế, Tam Bảo đầy đủ đến hộ trì bà ta làm cho tâm bà ta không điên đảo khi lâm chung.

Chúng ta đông người như vậy, ngày đêm thay phiên nhau, không ai nghe bà ta nói một câu quàng xiên nào, chưa hề nghe nói qua. Chưa hề thấy người nhà, quyến thuộc nào, khi chết được như vậy, chưa thấy ai trong quá khứ được như vậy. Đấy là hộ trì đắc lực, là phước báo thật sự.

Nghĩ đến khi chúng ta lâm chung trong tương lai, có được cơ hội ấy hay chăng?

Có được người xuất gia chân tâm chân ý đến hộ trì hay chăng?

Nếu không có nhân duyên ấy thì làm sao chúng ta không bị lỡ làng cho được.

Nằm bẹp trên giường bệnh, nghe người ta xếp đặt có được hay chăng?

Nguy hiểm quá. Vì thế, bà ta đã trao cho chúng ta một lời cảnh cáo, khi mất nhất định phải tự tại. Do vậy, tôi tìm đến ông Hoàng, chủ tiệm in Kinh. Tôi nhờ ông ta in cho tôi một vạn cuốn niệm Phật Luận để kết duyên với mọi người.

Trong niệm Phật Luận, người xuất gia là Thầy Tu Vô, biết trước lúc mất, ngồi qua đời, ngồi rất nghiêm túc, đẹp đẽ, rất tự tại. Trong số cư sĩ tại gia đều có những vị nam cư sĩ, nữ cư sĩ nêu gương tốt đẹp.

Niệm Phật bao lâu?

Cũng chẳng qua là dăm ba năm mà thôi, thời gian trọn chẳng dài.

Nếu quý vị hỏi vì sao họ có thể làm được ư?

Buông xuống muôn duyên, nếu hết thảy pháp thế gian lẫn xuất thế gian chẳng để nơi lòng thì một câu A Di Đà Phật sẽ được thành công.

Do vậy, những tấm gương ấy, những khuôn mẫu ấy, chúng ta phải thường nhắc tới, chứ không phải là trò trẻ nít. Chẳng những buông xuống duyên đời, mà Phật Pháp cũng phải buông xuống, thật sự là một câu Phật hiệu niệm tới cùng cực sẽ thành công. Thời thời khắc khắc tưởng nhớ A Di Đà Phật, chúng ta sẽ ra đi rất tự tại.

Giống như một đồ đệ làm nghề vá nồi của lão Pháp Sư Đế Nhàn khi Ngài còn trẻ, bất quá ông ta cũng niệm Phật ba bốn năm. Đạo lý nào trong Kinh Phật vị ấy cũng chẳng thông, vị ấy không biết chữ, nghe Kinh thì một buổi cũng chưa từng nghe qua.

Do vị ấy sống khổ quá, nên tìm đến Pháp Sư Đế Nhàn xin xuất gia. Pháp Sư Đế Nhàn cũng bị ông ta làm cho không còn cách nào khác được, phải thâu nhận. Ông ta là bạn chơi đùa thuở nhỏ, ở cùng chỗ với Sư lúc Ngài mới mấy tuổi.

Về sau, do ông ta khổ như vậy, sự khổ sở ấy khiến cho ông ta nhàm chán thế gian. Bởi vậy, cuộc sống tốt đẹp sẽ không hay, cuộc sống tốt đẹp khiến cho quý vị nẩy sanh ý niệm tham luyến thế gian, quý vị vẫn không lìa bỏ được, sẽ không có phần nơi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Cuộc sống khổ sở tốt lắm.

Do vậy, trong Kinh, Đức Phật đã dạy chúng ta: Dĩ khổ vi sư lấy khổ làm thầy rất có đạo lý. Cuộc sống khổ quá, một tí ti ý niệm tham luyến đối với thế gian đều không có, cho nên người ấy mới có thể nhất tâm niệm Phật. Niệm ba bốn năm, quý vị thấy ông ta đứng qua đời, lại còn đứng sững nhiều hôm rồi Pháp Sư Đế Nhàn mới đến lo liệu hậu sự cho ông ta.

Bởi lẽ, Đạo tràng tu học của ông ta ở Ôn Châu, tức huyện Ôn Châu tỉnh Chiết Giang, còn lão Pháp Sư Đế Nhàn thì ở Chùa Kim Sơn thuộc Trấn Giang ở Tô Châu, tức Chùa Kim Sơn ở Trấn Giang.

Người ta từ Ôn Châu đến báo tin, khi ấy chưa có phi cơ, cũng không có xe hơi, đi đường bộ, ngồi thuyền đến báo tin, lão Pháp Sư Đế Nhàn lại từ Chùa Kim Sơn trở về Ôn Châu lo liệu hậu sự cho ông ta, có nhanh thì cũng phải ba bốn ngày.

Chết rồi, ông ta vẫn đứng sững ba bốn ngày, thật phi thường. Một chữ cũng không biết. Do vậy, Quán Trưởng vãng sanh đã nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta hết sức cao độ.

Nay chúng ta phải học theo ai?

Phải học theo người ngu độn nhất, học theo người thợ vá nồi ấy, học theo người ấy thì chúng ta mới có thành tựu, mới có hy vọng. Mỗi một người đều phải tích cực đọc Sức Chung Tu Tri mấy lượt thì quý vị mới biết lâm chung đáng sợ.

Không phải là nói cái chết đáng sợ, chết không đáng sợ. Nói thật ra, người tiễn đưa lúc lâm chung đều là oan gia trái chủ, nếu chẳng đúng như pháp sẽ không ra làm sao cả, sẽ hỏng chuyện. Vì vậy, phương pháp tốt nhất là chính mình có thể biết trước lúc mất, không bị bệnh, muốn đi lúc nào thì đi ngay lúc đó, ra đi tự tại mới tốt.

Trong mấy năm gần đây nhất, chúng ta cũng có lúc nghe có những gương như vậy, người ta đã làm được thì tại sao chúng ta không làm được?

Tôi nhớ trong quá khứ, tôi cũng đã nói mấy lần rồi, chuyện này nói thêm mấy lần nữa cũng không sao. Ai đã nghe rồi thì ấn tượng sẽ sâu thêm, người chưa nghe thì hãy nghe cho kỹ.

Khi tôi ở Gia Châu California, Cam lão cư sĩ có kể cho nghe một câu chuyện, chuyện một người họ hàng của bà ta, người ấy cũng là một bà cụ.

Cam Lão Cư Sĩ cũng đã tám mươi mấy tuổi, sống ở Cựu Kim Sơn San Francisco. Người họ hàng của cụ cũng là một bà lão, con cái di dân đến Mỹ, bà lão sống nhờ con, làm chuyện nhà, chăm sóc cháu. Mỗi sáng sớm, cụ đều dậy nấu cơm, giặt quần áo.

Sáng hôm ấy, cơm không nấu, người nhà cảm thấy lạ lắm, hôm nay sao bà cụ ngủ trễ vẫn còn chưa dậy?

Liền mở cửa phòng bà cụ, nhà ở Mỹ phòng người già không khóa. Mở cửa ra xem, bà cụ ngồi xếp bằng trên giường, nhìn kỹ, cụ đã mất rồi. Chẳng hiểu chết vào lúc nào, ngồi xếp bằng ra đi, ngồi vãng sanh. Coi lại, cụ để sẵn di chúc trước mặt. Chẳng những có di chúc, mà đồ tang của mỗi đứa con, đứa cháu đều có, cụ đã may sẵn rồi, từng bộ từng bộ xếp bên cạnh.

Điều này thật phi thường, chẳng phải là cụ đã biết trước lúc mất hay sao?

May đồ tang từ lúc nào?

Đại khái là khi con trai, con dâu đi làm, cháu nội đi học, cụ ở nhà không có chuyện gì bèn mua vải, may y phục tại nhà, không báo cho ai biết, quý vị nói xem cụ cao minh hay chăng?

Biết trước lúc mất, cụ chẳng để lộ ra, hễ lộ ra sợ con cháu khóc lóc, cũng như van nài không cho cụ đi, cụ đi không được. Chẳng lộ tăm tích, một câu cũng chẳng nói, đi rồi viết sẵn di chúc để trước mặt. Nay chúng ta phải học theo gương ấy, đây là chuyện cận đại, chuyện thuộc vào mấy năm trước.

Bọn họ làm được thì vì sao chúng ta không làm được?

Do vậy, quý vị nhất định phải nhớ rõ, chuyện thế gian như mộng, huyễn, bọt, bóng. Chuyện gì quý vị đã làm xong, nhất định đừng giữ trong lòng. Giữ những chuyện ấy trong lòng là quý vị lầm lẫn quá đỗi rồi.

Đối với mọi chuyện thì sao?

Tùy duyên, quyết định chẳng nắm níu, tùy duyên sẽ tiêu nghiệp. Quý vị hỏi tôi, tôi không có chủ ý, tôi không có chủ trương, quý vị thích làm thế nào bèn làm như thế ấy, quý vị cho rằng như thế nào là hay thì làm như vậy mới là hay, quý vị tưởng quý vị tự tại lắm.

Ở trong hết thảy cảnh, trong hoàn cảnh nhân sự, trong hoàn cảnh vật chất, chúng ta phải tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng, tu tâm chân thành, niệm Phật như vậy thì mới có thể vãng sanh.

Do vậy, Chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi biến hóa hết thảy tác nghiệp, không phải là người thật sự tu hành sẽ chẳng thể thấu hiểu được. Nói chung là vì chính quý vị có thành kiến nên đối lập với các vị ấy.

Nói chung là gì?

Tạo nghiệp. Nếu quý vị thật sự biết hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức thì hết thảy cảnh giới đều là cảnh do Phật, Bồ Tát biến hiện. Đừng nghĩ Phật, Bồ Tát rất chiếu cố một ai đó, không quan tâm đến ta, nếu nghĩ như vậy thì quý vị đã khởi vọng tưởng, quý vị đã lầm lẫn rồi.

Thật ra, Phật, Bồ Tát thời thời khắc khắc luôn chiếu cố quý vị, nhưng chính quý vị không tiếp nhận, như vậy thì quý vị làm cách nào đây?

Người này khen ngợi quý vị mấy câu, quý vị sung sướng khôn cùng: Người ấy là người tốt. Kẻ nọ chửi quý vị vài câu, giận dữ mấy bữa không nguôi.

Người bên ngoài khen ngợi hay chửi rủa quý vị đều là Phật, Bồ Tát, quý vị không tiếp nhận, quý vị phản kháng họ, bảo là họ không chiếu cố quý vị ư?

Người ta khen ngợi quý vị, quý vị gật đầu: Rất hay. Tôi chẳng đáng được khen ngợi, tôi không được như vậy. Tâm quý vị bình tịnh, chẳng khởi sóng gió, chẳng sanh lòng hoan hỷ. Đối với hủy báng, khi nghe âm thanh hủy báng giống như tiếng vang trong hang trống, coi như không có những chuyện ấy, tâm quý vị vẫn như như bất động.

Quý vị thấy người ta hủy báng hay khen ngợi quý vị đều là tác nghiệp biến hóa của Phật, Bồ Tát, há quý vị chẳng thành tựu trong khi ấy ư?

Vì thế, Đại Sư Ngẫu Ích nói rất hay: Cảnh duyên không tốt, xấu, cảnh là hoàn cảnh vật chất, duyên là hoàn cảnh nhân sự.

Ngài nói rõ trong hoàn cảnh nhân sự lẫn hoàn cảnh vật chất không có gì là đúng, sai, tốt, xấu, vậy thì đúng, sai, tốt, xấu ở chỗ nào?

Ở trong lòng người, ở trong chính tâm ta.

Quý vị dùng cái tâm nào để cảm?

Quý vị dùng thiện tâm để cảm thì tất cả cảnh giới đều là lành, quý vị dùng ác tâm để cảm thì tất cả cảnh giới đều là ác. Vì thế mới nói cảnh chuyển theo tâm, chứ không phải là tâm chuyển theo cảnh. Tâm chuyển theo cảnh chính là những kẻ thấy biết lầm lẫn, không phải như vậy. Đạo lý thật sự là cảnh chuyển theo tâm.

Vì thế, Kinh Lăng Nghiêm dạy: Nếu có thể chuyển được cảnh sẽ giống với Như Lai. Thật sự là kẻ thông minh, lanh lợi thì quý vị phải chuyển được cảnh giới. Bất luận cảnh giới nào hiện tiền, nếu hiểu rõ ràng thì là trí huệ, như như bất động là thiền định.

Do vậy, hễ cảnh giới hiện tiền thì quý vị tu điều gì nơi đó?

Tu định, huệ, định huệ giữ cho cân bằng, làm sao quý vị không thành tựu cho được. Người niệm Phật nhất tâm bất loạn, nhất tâm là định, bất loạn là huệ.

Quý vị có được công phu ấy, làm sao chẳng vãng sanh?

Chúng ta thấy người ta vãng sanh, thấy rồi hết sức hâm mộ, họ có bản lãnh gì vậy?

Bản lãnh của họ nằm ở chỗ này, tức là trong hết thảy cảnh giới đều hiểu rõ ràng, như như bất động. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy Ngài Tu Bồ Đề mà cũng là dạy chúng ta, bất thủ ư tướng, như như bất động chẳng chấp lấy tướng, như như bất động, tức là ngoài chẳng chấp vào tướng, trong tâm chẳng động.

Chẳng phải là bảo quý vị mắt không thấy, tai không nghe, không phải vậy. Như vậy thì đâu có ích gì. Mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, hiểu rõ ràng là trí huệ, bất động là thiền định. Đấy là nói trên mặt sự, trên mặt sự thật ra quá nhiều, chẳng thể nói hết được.

Người biết tu hành sẽ tu hành trong cảnh duyên ấy, tách lìa hoàn cảnh nhân sự vật chất thì quý vị đến đâu để tu?

Vô ích. Tu hành tu trong xã hội phức tạp này, xã hội càng phức tạp sẽ càng dễ thấy rõ quý vị có công phu định huệ hay không. Tiếp đó là nói về lý. Đây là…

Thứ hai là lý bình đẳng. Sự đã bình đẳng mà lý cũng bình đẳng. Mười phương Như Lai có cùng một pháp thân, do ba đời Chư Phật không hai thể vậy. Ý nghĩa này cũng rất sâu.

Chư Phật Như Lai có cùng một pháp thân, chúng ta và Chư Phật có cùng một pháp thân hay chăng?

Quý vị phải hiểu rằng: Cũng cùng một pháp thân. pháp thân là lý thể, pháp thân là năng biến cái có thể biến hiện ra những thứ khác, y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do nó biến hiện. Phật Giáo chúng ta gọi nó là pháp thân, còn triết học hiện đại gọi nó là bản thể, tức bản thể của vũ trụ vạn hữu.

Vạn hữu trong vũ trụ do đâu sanh ra?

Từ đây mà sanh ra, Phật Giáo chúng ta gọi là pháp thân. Do vậy, chúng ta và hết thảy Chư Phật, Bồ Tát đều cùng một pháp thân. Có cùng một pháp thân với hết thảy Chư Phật nghĩa là cũng có cùng một pháp thân với hết thảy chúng sanh. Phật, Bồ Tát biết rõ ràng, minh bạch, cho nên Phật, Bồ Tát lưu xuất tâm từ bi, gọi là vô duyên đại từ, chữ duyên ở đây là điều kiện. Vô duyên là vô điều kiện.

Đồng thể Đại Bi, vì sao các Ngài yêu thương, che chở chúng sanh, quan tâm đến các chúng sanh vô điều kiện?

Là vì có cùng một pháp thân. Chẳng những hết thảy hữu tình có cùng một pháp thân, mà vô tình chúng sanh cũng có cùng một pháp thân.

Đây chính là như Kinh Hoa Nghiêm đã nói: Tình và vô tình cùng viên Chủng Trí. Cùng một pháp thân, đấy là giác ngộ, hiểu rõ. Chúng sanh không giác ngộ, mê hoặc, điên đảo, nên cùng là một thân mà thấy là bất đồng, vẫn cứ muốn song phương đối lập với người ấy, vẫn muốn tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, vẫn muốn gây tổn thương cho nhau, chẳng biết là có cùng một pháp thân.

Do vậy, hại người cũng là hại chính mình, lợi ích người khác là lợi ích chính mình, vì sao?

Tự tha bất nhị, trong Kinh Đại Thừa Đức Phật thường nói như thế.

Vì sao chúng ta không thể làm được?

Chúng ta vẫn thấy ta và người là hai, đấy gọi là nghiệp chướng, tập khí từ vô thủy kiếp đến nay, mê hoặc, điên đảo mà. Đấy là bình đẳng trên mặt lý. Tiếp theo là dẫn các Kinh để làm chứng.

Vì thế, Kinh Bát Nhã dạy: Nếu một Đức Phật ra đời thì hết thảy đều ra đời. Nếu một Đức Phật nhập Niết Bàn thì hết thảy đều nhập Niết Bàn.

Vì sao vậy?

Do pháp tánh của Chư Phật không hai tướng. Chẳng biết như thế thì không phải là chân thật niệm Phật.

Nói tới pháp môn niệm Phật, người chân chánh niệm Phật hiểu rõ đạo lý này, do vậy, Kinh Luận thường nói tới Phật hiệu của người niệm Phật chân thật ấy như sau: Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật.

Vì sao nay chúng ta chẳng thể không tương ứng, vì sao người ta một niệm tương ứng một niệm Phật?

Do người ta hiểu rõ chân tướng sự thật, trong mấy năm gần đây, chúng tôi thường gọi chân tướng sự thật ấy là chân tướng của nhân sanh vũ trụ, hiểu rõ chân tướng là giác ngộ, giác chính là Phật.

Nhất Phật xuất thế, nhất thiết giai xuất: Chẳng phải là cảnh giới của phàm phu, mà là cảnh giới Phật. Đức Phật đã thành Phật, thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy: Hết thảy chúng sanh vốn đều là Phật.

Khi nào quý vị sẽ thấy được?

Khi thành Phật sẽ thấy được. Chính mình đã thành Phật sẽ thấy hết thảy bao nhiêu chúng sanh vốn đều là Phật.

Điều này là một khải thị lớn cho chúng ta, chúng ta hãy nên thường phản tỉnh: Chính mình đang thuộc cảnh giới nào?

Nếu chính mình thấy được hết thảy chúng sanh đều thành Phật thì chính mình sẽ thành Phật. Nếu quý vị vẫn thấy ta thành Phật rồi, những kẻ khác đều là phàm phu, chắc chắn quý vị chưa thành Phật. Vị Phật ấy là Phật giả, không thật. Quý vị muốn thành Bồ Tát thì thấy hết thảy chúng sanh đều là Bồ Tát.

Cùng một đạo lý ấy, quý vị thấy hết thảy chúng sanh đều là người tốt thì quý vị mới là người tốt. Quý vị thấy hết thảy chúng sanh đều là kẻ xấu thì chính mình là người xấu xa nhất.

Do vậy, Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư nói: Nếu ai thật tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian. Đấy là bí quyết dụng công.

Lục Tổ nói Ngài dụng công chỉ thấy lỗi lầm của chính mình, không thấy lỗi của người khác, sao Ngài không khai ngộ cho được?

Làm thế nào để chứng quả?

Bí quyết nằm trong câu ấy. Nếu quý vị học được bí quyết ấy thì một đời này quý vị sẽ có hy vọng thành công, có hy vọng khai ngộ, chứng quả. Quý vị phải nắm chặt bí quyết này, phải học nhé.

Thấy lỗi của chính mình, chẳng thấy lỗi thế gian, Ngài không nói chẳng thấy lỗi người khác, chẳng thấy lỗi người khác còn thuộc phạm vi nhỏ nhoi.

Vì chỉ hạn cuộc nơi con người thôi. Ngoài con người ra, còn có rất nhiều sự, rất nhiều vật, tất cả hết thảy những lỗi lầm ngoài những lỗi của chính mình ra, người ấy đều không thấy, những gì người ấy thấy toàn là thiện.

Có kẻ cật vấn: Trong những điều thiện chẳng có tướng sai biệt ư?

Có tướng sai biệt chứ. Đủ mọi thứ bốnớng thuận nghịch sai biệt, giống như trong năm mươi ba lần tham học ở đây là năm mươi ba thứ cảnh giới bất đồng, hiện tượng bất đồng, nhưng trong các thứ hiện tượng chẳng thấy lỗi lầm của người khác, chỉ thấy toàn những chỗ tốt đẹp của họ.

Nếu quý vị không tin tưởng, quý vị hãy nghĩ đến điều tôi vừa mới thưa cùng các quý vị. Quý vị thấy Quán Trưởng có đủ thứ lỗi lầm, tôi thấy bà ta điều gì cũng tốt đẹp, tôi không thấy bà ta có lỗi lầm.

Vì sao thế?

Những hành vi của bà ta đều tạo lợi ích cho tôi, tôi đều được thọ dụng, nhờ bà ta mà tôi lãnh ngộ, khai giải, đoạn tập khí, tăng trưởng định huệ. Vấn đề thuộc về mỗi người. Khi đã thấy Quán Trưởng đối xử với tôi như thế thì những người khác cũng giống như vậy, chỗ nào cũng giống như nhau.

Người ta lăng nhục tôi, chửi bới tôi, tôi rất cám ơn họ, vì sao tôi cảm ơn họ?

Là vì họ đến khảo nghiệm tôi, tôi thật sự không động tâm, không sanh phiền não, tôi đậu rồi. Tôi cảm tạ họ.

Họ đến khen ngợi tôi, đến cúng dường tôi, tôi cũng cảm tạ họ, vì sao?

Tôi không khởi tâm tham, tôi không bị lay động bởi những thuận cảnh, tôi thấy toàn là cảnh giới tốt. Như vậy mới có thể thành tựu, đó gọi là học Phật, đấy gọi là tu hành. Tu hành là thời thời khắc khắc trong hết thảy cảnh giới, sửa đổi cho đúng những hành vi lầm lạc.

Khi thấy người khác có lỗi lầm, tức là họ có hành vi sai lầm thì phải quay đầu phản tỉnh coi chính mình có mắc lỗi lầm ấy hay không.

Vì trong cảnh thuận hay nghịch phải phản tỉnh xem chính mình có khởi tâm động niệm hay không?

Nếu có khởi tâm động niệm, trông thấy lỗi lầm của chính mình, thật sự không thấy lỗi lầm của người khác.

Người khác trắc nghiệm chính ta, thí nghiệm xem chính ta có khởi tâm động niệm hay không?

Nếu hồi quang phản chiếu được như vậy, thường xuyên phản tỉnh như thế, tôi tin là công phu quý vị mỗi năm sẽ tiến bộ hơn. Rèn luyện được mười năm hay tám năm, tâm quý vị sẽ thanh tịnh, sẽ bình đẳng. Tâm thanh tịnh, bình đẳng sanh ra trí huệ, chẳng sanh phiền não. Pháp môn niệm Phật cũng chẳng phải là ngoại lệ, vì thế chẳng biết như thế, chẳng phải là niệm Phật chân thật.

Vì thế, trong phần trước, Kinh dạy: Nếu sanh tâm tưởng như thế này, vị Phật này tối thắng như thế này, thì đấy là điên đảo, chẳng phải là thật nghĩa, chẳng thể thấy được chánh giác.

Vì sao vậy?

Là vì khởi tâm động niệm. Quý vị trông thấy Phật, thấy Đức Phật này thù thắng. Chúng ta niệm bài kệ Tán Phật, Thập Phương Tam Thế Phật, A Di Đà đệ nhất mười phương ba đời Phật, A Di Đà bậc nhất, A Di Đà Phật là thù thắng nhất.

Tự quý vị cho là không sai lầm, tôi tán thán A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là bậc nhất, trong mười phương ba đời A Di Đà Phật là bậc nhất. Quý vị khởi lên cái tâm ấy, động ý niệm ấy thì quý vị điên đảo, chẳng phải là thật nghĩa.

Vì sao vậy?

Phật Phật đạo đồng, Phật Phật bình đẳng, sao A Di Đà Phật lại là bậc nhất?

Do vậy, nếu quý vị thấy hiểu như vậy, giữ ý niệm ấy thì ý niệm của quý vị chẳng phải là Chánh Giác. Quý vị chưa giác ngộ, quý vị vẫn còn đang mê, quý vị vẫn xử sự theo cảm tình.

Vậy thì A Di Đà Phật có phải là bậc nhất hay không?

Đích thực là bậc nhất là nói theo phương diện nào?

Là nói theo Phương tiện độ chúng sanh. Từ phương pháp, Phương tiện độ chúng sanh để nói, đích thực Ngài là bậc nhất. Vì thế, mười phương Chư Phật đều khen ngợi Ngài.

Mười Phương hết thảy Chư Phật có hay không có phương pháp ấy của A Di Đà Phật?

Thưa với quý vị, đều có cả.

Làm sao không có cho được?

A Di Đà Phật có, những vị Phật khác không có đâu có lẽ nào như vậy.

A Di Đà Phật khuyên chúng ta niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, hết thảy các vị Phật khác cũng khuyên chúng ta niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, vậy là không giống nhau sao?

Pháp Môn này chẳng phải là hết thảy Chư Phật đều cùng có hay sao?

Do vậy, quý vị phải hiểu là qua những điều trên đây, các vị Tổ Sư khen ngợi: Thập phương tam thế Phật, A Di Đà đệ nhất. Tổ sư đại đức tán thán như vậy đó. Quý vị phải thật sự hiểu rõ ý nghĩa chân thật.

Đấy chính là như trong Kinh Kim Cang Bát Nhã đã dạy: Đệ nhất giả tức phi đệ nhất, thị danh đệ nhất đệ nhất tức chẳng phải là đệ nhất nên gọi là đệ nhất. Không sai. Quý vị thật sự hiểu được ý nghĩa của chữ đệ nhất, trí huệ thật sự mở mang.

Tuy nghe hết thảy những điều Tổ Sư tán thán, tâm quý vị vẫn như như bất động, rõ ràng, minh bạch, quý vị nói xem đệ nhất có nghĩa là gì?

Đây chính là thuyết minh, giải thích cảnh giới bình đẳng của hết thảy Chư Phật. Tiếp theo đó, Đại Sư Thanh Lương giảng về trí huệ vô ngại. Dùng vô ngại trí huệ để tổng kết trí năng quán. Phần trên nói về cái được quán, tức là cảnh giới bình đẳng được quán bởi Chư Phật.

Quý vị dùng cách nào để quán sát?

Vô ngại trí huệ.

Đây chính là đoạn Kinh Văn trong phần trước, trong đoạn ấy đã nói: Trí quang chiếu rạng. Trí ấy là trí huệ vô ngại, đấy chính là trí năng quán. Thấy Phật, chấp vào tướng là vướng mắc nơi phương tiện.

Biết Phật không tịch, chân huệ bị chìm. Niệm mà vô niệm, chẳng trở ngại nơi sự, luôn chân thường. Vô niệm mà niệm thì chẳng động chân nhưng công dụng luôn thường hằng. Động và tịch vô ngại thì mới niệm chân Phật được. Tiểu đoạn này nhằm giải thích vô ngại trí huệ, giải thích trí quang chiếu diệu.

Kiến Phật thủ tướng: Thủ tướng là chấp vào tướng, Phật hiện các thứ bốn tướng đều là pháp phương tiện, thường gọi là thiện xảo phương tiện. Không có phương tiện, Phật chẳng thể độ chúng sanh.

Y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, nhất chân pháp giới, Kinh Hoa Nghiêm gọi là Hoa Tạng Thế Giới, Kinh Di Đà gọi là Cực Lạc Thế Giới, đều là phương tiện thị hiện, có tướng ấy hay không?

Có. Tác dụng của những tướng ấy là làm cho sáu căn của quý vị khi tiếp xúc những cảnh giới ấy sẽ từ ngay nơi tướng mà lìa được tướng, tác dụng ở chỗ này. Nếu quý vị thấy tướng mà chấp vào tướng là hỏng rồi, quý vị mê mất rồi, biến thành phàm phu rồi.

Trệ ư phương tiện: quý vị chẳng biết phương tiện của Như Lai.

Quý vị phải hiểu rằng: Các thứ hiện tượng hiện ra trong Thế Giới ngày nay của chúng ta đều là phương tiện của Chư Phật Như Lai, tùy thuộc quý vị có hiểu hay không?

Do vậy, nói thật ra, Phật luôn luôn thị hiện trong thế gian, đáng tiếc là người đời chẳng biết. Vậy thì còn có cách nào nữa. Quý vị chưa giác ngộ mà.

Chẳng phải là các Ngài không chịu giúp đỡ quý vị, mà là vì quý vị chẳng biết quay đầu. Nguyên nhân chẳng biết quay đầu là do quý vị hễ thấy Phật liền chấp tướng. Chữ Phật nói ở đây là nói đại diện, trong mười pháp giới chọn một pháp giới để đại diện.

Thấy Bồ Tát liền chấp vào tướng Bồ Tát, thấy chúng sanh liền chấp vào tướng chúng sanh, thấy lành liền chấp vào tướng lành, thấy ác liền chấp vào tướng ác, quý vị nói xem có rối ren hay không?

Như vậy là trật, chấp vào tướng là sai bét rồi.

Không chấp thì sao?

Không chấp cũng trật lất luôn.

Tiếp theo đó, lời Chú Giải ghi: Tri Phật không tịch, hiểu phàm những gì có tướng đều là hư vọng, hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng đấy cũng là những điều được nói trong Kinh, Phật dạy đấy, không sai. Nhưng quý vị hiểu sai ý nghĩa.

Hiểu sai điều gì?

Hết thảy đều là không, mặc kệ. Chuyện gì tôi cũng không muốn làm, chỉ tu cho cái tâm của chính mình thanh tịnh, tâm từ bi một tí tẹo cũng không có.

Chuyện tốt là giả mà, làm để làm chi?

Chuyện xấu là giả mà, có làm cũng chẳng sao.

Vậy là quý vị chẳng bị hỏng chuyện có được chăng?

Đấy gọi là ác thủ không chấp vào không một cách sai lầm, hiểu lầm ý nghĩa của Phật.

Câu đầu tiên trong bài Kệ Khai Kinh là nguyện kiến Như Lai chân thật nghĩa, sao quý vị lại hiểu lầm nghĩa chân thật của Như Lai?

Do vậy, Phật nói không, chẳng thể chấp vào không. Phật nói có, chẳng thể chấp vào có. Chỗ cao minh của Chư Phật, Bồ Tát là chẳng chấp vào hai bên có và không, như vậy là đúng.

Chúng ta biết hết thảy pháp là không, nhưng chúng ta niệm A Di Đà Phật không ngớt, tâm nguyện cầu vãng sanh hết sức khẳng định, thiết tha, chân thật, chẳng rớt vào không. Biết phàm những gì có tướng đều là hư vọng, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cũng chẳng phải là ngoại lệ.

Do vậy, tuy thấy A Di Đà Phật, sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, nhưng đối với A Di Đà Phật, Cực Lạc Thế Giới tuyệt đối không có mảy may tâm tham ái nào, chẳng chấp vào có. Hai bên không và có đều chẳng chấp, đấy mới là chân thật niệm Phật.

Do vậy, nếu quý vị chấp vào không thì chân huệ bị chìm, biến thành gì?

Biến thành A La Hán, Bích Chi Phật, chấp không. Phàm phu chấp có, Nhị Thừa chấp không, đều sai cả.

Tiếp theo, lời Chú Giải dạy chúng ta niệm mà vô niệm, đây là nói trên mặt thể. Niệm và vô niệm là một không phải hai. Bất ngại sự nhi hằng chân, niệm là sự, trên mặt sự thì có niệm. Chúng ta một ngày từ sáng đến tối niệm A Di Đà Phật, trong hai mươi bốn giờ chẳng gián đoạn, đấy là sự.

Nhưng cần biết rằng: Trong bản tánh chân tâm không có niệm, vô niệm mà.

Một câu Phật hiệu là gì?

Chính là Đức Hiệu nơi bản tánh chân như của chúng ta. Chúng ta niệm một câu A Di Đà chính là niệm mà vô niệm. Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, dựa theo thể để nói thì bất ngại sự nhi hằng chân.

Vì thế, quý vị phải hiểu rõ đạo lý này, rõ ràng, rành rẽ, câu A Di Đà Phật nào của quý vị cũng đều tương ứng, tương ứng với gì?

Tương ứng với chân như bản tánh, đấy chính là tương ứng với vô niệm, niệm và vô niệm tương ứng. Đấy là nói trên mặt thể. Tiếp theo, vô niệm mà niệm là nói trên mặt sự. Vô niệm là bản tánh chân như, niệm là sự tướng, tánh khởi tác dụng. Hai thứ này tác dụng lẫn nhau, sự chẳng ngại lý, lý chẳng ngại sự.

Phần trước là nói về thể, tức sự chẳng ngại lý. Đối với hằng chân ở đây thì chân là chân lý, vô niệm mà niệm chính là lý chẳng trở ngại sự. Nói sự hay lý đều được, nói là tánh hay tướng cũng được. Niệm ấy là tướng, vô niệm là tánh, đều nói được, đều nói rất thông suốt, đều là rất viên dung.

Bất động chân nhi hằng dụng: Tự tánh là bất động, là thanh tịnh tịch diệt, nhưng chúng ta niệm Phật thì phải động, niệm Phật là dụng, tức tác dụng. Chúng ta miệng xưng danh, ý niệm trong tâm tưởng Phật, không cần tưởng gì khác. Nếu chúng ta dấy lên vọng niệm, tốt nhất là nhìn Tượng Phật.

Hiện thời chúng ta in rất nhiều tấm cạc nhỏ có hình Tượng Phật, quý vị có thể mang theo, khi vọng niệm dấy lên bèn lấy Tượng Phật ra, nhìn vào Tượng Phật, tưởng Phật, chẳng cần tưởng gì khác. quý vị tưởng chi khác đều là tạo sanh tử luân hồi, tưởng Phật thì trong một đời này mới có thể vượt thoát sanh tử luân hồi, đừng tưởng gì khác nữa.

Phải niệm Kinh cho thuộc, niệm thuộc nhằm ý nghĩa gì?

Có lúc vọng tưởng dấy lên, hễ phát hiện chính mình đang khởi vọng tưởng liền niệm Kinh thuộc lòng. Niệm một hai đoạn Kinh, vọng tưởng sẽ mất. Đấy gọi là chân dụng công, gọi là chân tu hành. Phàm phu ai cũng có vọng niệm, không có vọng niệm là đã thành Phật rồi.

Vì thế, bậc Cổ Đại Đức dạy chúng ta: Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ biết chậm. Ý niệm có dấy lên cũng chẳng khẩn yếu gì, đấy là tập khí từ vô thủy kiếp đến nay, điều này phàm phu ai cũng có, không có gì kỳ lạ cả. Ý niệm vừa dấy lên liền nhận biết ngay lập tức.

Giác là gì?

Giác là Huệ, tiêu diệt ý niệm ấy đi, tiêu trừ đi. Vì thế, quý vị niệm Phật là giác, quý vị đọc Kinh cũng là giác, quý vị nhìn Tượng Phật cũng là giác, nhất định phải trừ được vọng niệm ấy.

Động hay tịch đều vô ngại thì mới là niệm chân Phật. Đây mới là chân chánh niệm Phật. Chân chánh niệm Phật quy kết lại là tương ứng, một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật. sự lý tương ứng, tánh tướng tương ứng.

Lại xem tiếp phần kế:

Pháp Môn Phổ Kiến là: Một câu này là… nhằm gộp chung cả hai thứ trong phần trước. Hai thứ trong phần trước… nhằm kết lại phần giải thích tên gọi ấy.

Câu này là câu tổng kết. Ngài gọi pháp môn ấy là pháp môn Phổ Kiến. Tức là cảnh giới bình đẳng của hết thảy Chư Phật và trí huệ vô ngại được gọi chung là pháp môn Phổ Kiến.

Tức là phổ nhãn thấy thấu suốt triệt để như đã nói trong phần trước. Phổ nhãn minh triệt được nói trong phần trước, còn ở chỗ này thì… tức là có thể coi câu sau cùng này là tên chung của pháp môn. Pháp môn này được Ngài gọi bằng danh xưng chung là pháp môn Phổ Kiến. Chúng ta thấy Năng Kiến và Sở Kiến. Trong đoạn sau, Đại Sư lập ra một đoạn vấn đáp.

Ngài nói:

Hỏi: Pháp môn vô lượng, vì sao vị thiện hữu đầu tiên lại dạy niệm Phật?

Lời hỏi này rất hay.

Vô lượng vô biên pháp môn, Thiện Tài gặp được vị đầu tiên để tham phỏng là Tỳ Kheo Cát Tường Vân, vì sao trong vô lượng pháp môn, Ngài lại dạy Thiện Tài pháp môn niệm Phật, chẳng dạy pháp môn khác?

Câu hỏi này rất hay, cũng là điều chúng ta đang ngờ vực.

Đáp: Đại lược có mười nghĩa. Đại Sư Thanh Lương trả lời câu hỏi này. Nói thật ra thì có vô lượng nghĩa. Vô lượng nghĩa được quy nạp thành mười điều cho dễ nói, thuận tiện một chút, nhằm biểu thị vô lượng. Dưới đây là mười câu. Vì niệm Phật tam muội đứng đầu các hạnh.

Trí Độ Luận ghi: Bồ Tát lấy bát nhã Ba La Mật làm mẹ, lấy Ban Châu tam muội làm cha. Rất nhiều người chưa đọc Kinh Hoa Nghiêm, cũng có nhiều người đọc Kinh Hoa Nghiêm theo kiểu nuốt trộng quả táo, chưa nghiên cứu sâu xa ý nghĩa. Nếu thật sự đọc Kinh Hoa Nghiêm, tìm tòi nghĩa lý, chưa có một ai chẳng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Tôi đã từng thưa với các quý vị, khi trước tôi đã từng kể rồi, tôi tin tưởng pháp môn này là do đọc Hoa Nghiêm, giảng Hoa Nghiêm, tôi mới hiểu rõ. Hồi tôi ở Đài Trung, thầy Lý khuyên tôi niệm Phật.

Ngài là thầy nên tôi chẳng thể trái ý, nhưng trong tâm hoàn toàn chẳng phục. Tuy miệng không dám nói ra, nhưng trong tâm không phục.

Vì sao vậy?

Giáo pháp nhiều như thế, chẳng để cho tôi thâm nhập, nghiên cứu, tìm tòi, bảo tôi niệm Phật, nói chung là không cam lòng, chẳng muốn. Năm Dân Quốc 60 - 1971, tôi bắt đầu giảng Hoa Nghiêm, khi ấy giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập Hoa Nghiêm cùng một lúc, cũng giảng đến chỗ này.

Do muốn giảng thì chẳng thể không thâm nhập, nghiên cứu, mới hiểu rõ pháp môn niệm Phật thù thắng: Trong vô lượng vô biên pháp môn, pháp môn niệm Phật là bậc nhất. Vì pháp môn niệm Phật đứng đầu các hạnh. Hạnh này là hạnh Bồ Tát. Trong vô lượng vô biên Bồ Tát hạnh môn, niệm Phật tam muội được tôn là bậc nhất.

Do vậy niệm Phật tam muội được gọi là Vua của các tam muội, được xưng là Bảo Vương tam muội là do ý nghĩa này. Đại Sư Thanh Lương lại dẫn lời Trí Độ Luận để lập luận, đấy là chứng minh hết sức mạnh mẽ, chẳng phải là Ngài đoán mò, chẳng phải là kiến giải của cá nhân Ngài.

Trong Đại Trí Độ Luận có một câu Bồ Tát lấy Bát Nhã Ba La Mật làm mẹ, lấy Ban Châu tam muội làm cha. Do vậy, vị thiện tri thức để tham học đầu tiên trong Kinh Hoa Nghiêm là Tỳ Kheo Cát Tường Vân tu Ban Châu tam muội.

Trong phần trước, tôi đã nói cặn kẽ với quý vị về Ban Châu tam muội rồi. Ban Châu tam muội lấy niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ làm chủ, niệm một vị Phật là niệm hết thảy Phật, sanh về một Cõi Phật là sanh về hết thảy các Cõi Phật, thật chẳng thể nghĩ bàn. Đúng là chưa có pháp môn nào có sức thù thắng như thế.

Bát Nhã Ba la mật có trọng yếu hay không?

Trọng yếu. Do vậy, trong năm ngoái chúng tôi đã giảng Kim Cang Bát Nhã. Những đồng tu ở bên Mỹ gọi điện thoại cho tôi, họ đã hoàn thành bản Giảng Ký Kinh Kim Cang Bát Nhã trên máy điện toán, sau khi hoàn thành còn đợi tôi xem lại một lượt, lại sửa đổi cặn kẽ, rồi mới cho in thành sách.

Tôi nghĩ đại khái phải mất thời gian một năm. Sau một năm, cuốn Kim Cang Kinh Giảng Ký được in ra, phân lượng đại khái là phải gấp rưỡi bản Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Ký.

Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Ký in bản hoàn chỉnh gồm bốn cuốn, Kim Cang Kinh Giảng Ký gồm sáu cuốn, có phân lượng lớn như vậy. Bản Kinh ấy giảng mất bốn tháng, tổng cộng giảng trong hai trăm bốn mươi tám giờ, nhưng chúng tôi giảng Vô Lượng Thọ Kinh chỉ một trăm lẻ bảy giờ, còn để giảng bản này thì mất hai trăm bốn mươi tám giờ, giảng một bộ Kim Cang Kinh.

Nghe nói hiện thời ở nơi đây có đài truyền hình đã cho phát sóng, đại khái cần phải phát hình trong một năm. Đối với pháp Ban Châu tam muội này, cần phải biết Kim Cang Bát Nhã.

Vì sao vậy?

Biết Kim Cang Bát Nhã thì quý vị mới có thể thấy thấu suốt, mới buông xuống được, quý vị niệm Phật mới được tương ứng. Nếu quý vị không có trí huệ, trong phần trước như tôi đã nói quý vị không chấp có sẽ liền chấp không, quý vị niệm Phật sẽ chẳng thể tương ứng được.

Trí huệ bát nhã dạy chúng ta phải bỏ, đừng chấp vào hai bên có và không thì một câu Phật hiệu sẽ đắc lực, được tương ứng. Đây là lý do thứ nhất.

Lý do thứ hai: Do nương vào Phật lực sẽ có thể thành tựu hạnh thù thắng. Ý nghĩa của câu này rất rõ ràng. Tu học các pháp môn khác là cậy vào chính mình, cậy vào chính mình để đoạn hoặc chứng chân, khó lắm.

Quá sức là khó. Nhưng pháp môn Ban Châu tam muội niệm Phật lập tức được Phật lực gia trì, điều này hết sức chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng những được Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật gia trì, A Di Đà Phật gia trì, còn cùng lúc được mười phương ba đời hết thảy Chư Phật gia trì.

Chỉ cần quý vị thật tâm niệm, chỉ cần niệm đúng pháp, trong Kinh có nói những đạo lý, phương pháp này, đúng như lý, như pháp để niệm thì quý vị lập tức được Chư Phật Như Lai gia trì, trở thành sự tu hành thù thắng nhất trong những hạnh môn.

Do vậy, dựa vào năng lực của chính mình thì quý vị phải đoạn phiền não, đừng nói chi khác, thị phi, nhân ngã, ngũ dục, lục trần, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, quý vị có thể đoạn được hay chăng?

Chẳng thể chỉ đoạn những thứ này trên mặt sự. Đoạn trên mặt sự thì vô ích. Cảnh giới hiện tiền, tuyệt đối chẳng khởi tâm động niệm, như vậy mới gọi là thật sự đoạn.

Quý vị vẫn còn có ý niệm sanh khởi thì quý vị chưa đoạn, ở chỗ nào thì quý vị mới được gọi là đoạn?

Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm. Nhất định phải dựa vào Phật lực. Do vậy, pháp môn niệm Phật dựa vào Phật lực, dựa vào sức gia trì của hết thảy Chư Phật.

Vì thế, quý vị phải nghe Kinh. Nếu thường nghe Kinh, những Pháp Sư khác giảng Kinh quý vị cũng có thể đến nghe, quý vị đến nơi ấy để thể nghiệm. Giảng Kinh Tịnh Độ, Kinh Hoa Nghiêm là Kinh Tịnh Độ, đặc biệt là Tứ Thập Hoa Nghiêm.

Quý vị thấy hiện tại đang giảng pháp môn niệm Phật, bảo quý vị niệm A Di Đà Phật, cho nên Kinh này là niệm Phật Kinh. Cổ Nhân xưng tụng Vô Lượng Thọ Kinh là trung bổn Hoa Nghiêm, A Di Đà Phật là tiểu bổn Hoa Nghiêm. Như vậy thì Hoa Nghiêm Kinh là đại bổn của Vô Lượng Thọ Kinh.

Vì thế, quý vị nghe Kinh này, đọc loại Kinh này, khí phận khác hẳn, Đạo tràng này cảm ứng khác hẳn, do được Chư Phật hộ niệm cho nên mọi người trong Đạo tràng này có thể sanh tâm hoan hỷ.

Sanh tâm hoan hỷ chẳng phải là vì Pháp Sư giảng hay, thưa với các quý vị, mà là do Phật Quang rưới soi, là được Phật lực gia trì. Vì thế, quý vị có cảm nhận đặc biệt là do ý nghĩa này.

Quý vị lại nghe giảng những Kinh khác, giảng Kinh khác tuy vẫn có sự hoan hỷ, nhưng sức hoan hỷ rất yếu ớt, khác hẳn. Do khí phận trong Đạo tràng này khác hẳn nên quý vị cảm nhận khác hẳn. Nếu quý vị chú tâm lãnh hội, cũng thấy rất rõ rệt, rất rõ ràng, có thể nhận biết được.

A! Hôm nay đến giờ rồi. Chúng tôi giảng đến đây thôi.

A Di Đà Phật!

***