Ñeä Töû Quy laø tri thöùc cuûa ngöôøi xöa ñeå laïi.
Toå Tieân nhaân haäu giuùp ñôõ cho neân
Quoác Gia, xaõ hoäi, ñôøi soáng cuûa Quyù vò
khi thöïc haønh seõ ñöôïc keát quaû toát ñeïp

detuquy.edu.vn

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ YẾU GIẢI GIẢNG KÝ - TẬP BẢY - B

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ

YẾU GIẢI GIẢNG KÝ

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP BẢY - B
 

A Di Đà Phật nêu gương, đó là bản chất. Như bốn mươi tám nguyện trong Kinh Vô Lượng là bản chất của A Di Đà Phật. Chúng ta đọc thuộc bốn mươi tám nguyện, hiểu rõ bốn mươi tám nguyện, sau đó chúng ta học theo A Di Đà Phật, cũng phát đại nguyện như thế, dẫn khởi những nguyện nơi tâm tánh của chúng ta biến hiện thành các sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo.

Toàn Phật tức sanh, toàn tự tức thaÝ nghĩa này rộng lớn vô biên, không có cùng tận.

Ví dụ như nói: Toàn sự tức lý, toàn tánh tức tướng thì cũng là đồng nghĩa. Nếu khế nhập cảnh giới ấy thì chẳng những không có phiền não, mà sanh tử cũng không. Ngộ đạo lý này thì chính là Phật, Bồ Tát, mê đạo lý này thì chính là phàm phu. Hễ ngộ thì là nhất chân pháp giới, hễ mê thì là mười pháp giới.

Mê càng sâu, càng sẽ đọa xuống. Chữ toàn Phật chỉ bản chất của Phật và các thứ trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Tánh đức của mỗi một người vãng sanh hoàn toàn chưa hiển lộ, trông thấy cảnh giới của A Di Đà Phật thì tánh đức của họ sẽ tự nhiên dấy động.

Tây Phương Thế Giới là như vậy, mà Thế giới hiện tại của chúng ta, tức Thế Giới Ta Bà cũng chưa bao giờ chẳng giống như vậy. Hiện thời, chúng ta dùng nghiệp lực của mọi người làm bản chất tăng thượng.

Cách nghĩ, cách nhìn, cách làm của mọi người trong hiện tại đều chẳng phải là thiện nghiệp. Bản thân chúng ta vốn sẵn tốt lành, nhưng ở trong Ta Bà đã lâu, tự nhiên bị nhiễm rất nhiều tập khí ác, đấy là vì hoàn cảnh xui khiến như vậy.

Tây Phương Thế Giới A Di Đà Phật tự tánh viên mãn, lấy tánh đức ấy làm bản chất cho chúng ta. Do vậy, hễ sanh về Tây Phương, chẳng mấy chốc, chúng ta sẽ được huân nhiễm, trở thành có phẩm đức thù thắng. Tây Phương Thế Giới khác biệt những Thế giới khác ở chỗ này. Chữ tha trong câu toàn tha tức tự chỉ A Di Đà Phật, tức là tự tánh Di Đà.

Đấy là quả, cho nên nói: Thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Thành tựu công đức trang nghiêm như thế. Đại Sư sử dụng văn tự không nhiều, nhưng giảng giải Tây Phương Thế Giới, bất luận sự hay lý, tánh hay tướng, đều giảng hết sức thấu triệt. Quả thật là một bộ sách hay, khó có.

Kinh: Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật Quốc Độ thường tác thiên nhạc, hoàng kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên Mạn đà la hoa. Kỳ độ chúng sanh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thịnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành.

Chánh Kinh: Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thường tấu nhạc Trời, vàng ròng làm đất. Ngày đêm sáu thời tuôn mưa hoa Mạn đà la. Chúng sanh cõi ấy, thường vào sáng sớm, ai nấy dùng lẵng đựng hoa, đựng các hoa đẹp, cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác. Liền trong khoảng bữa ăn, trở về nước mình, dùng cơm xong đi kinh hành.

Tây Phương Thế Giới thường có nhạc Trời tấu trên không trung, tùy theo ý thích của từng người mà nghe loại âm nhạc mình yêu thích. Mặt đất và đường đi đều phủ vàng ròng.

Trú dạ lục thời, vũ thiên Mạn đà la hoa. Ngày đêm sáu thời, tuôn mưa hoa Mạn đà la. Đức Phật thuận theo quan niệm về thời gian của chúng sanh trong cõi này Ta Bà mà nói ngày đêm sáu thời chứ thật ra, ở Tây Phương không có ngày đêm.

Mạn đà la, Māndārava, Mandāraka là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Thích Ý, tức là thấy và nghe đều đẹp ý mình. Về tình trạng sinh sống của chúng sanh cõi ấy, họ có thần thông rộng lớn, thường vào lúc sáng sớm, ai nấy dùng lẵng đựng hoa đựng các loại hoa đẹp, cúng dường mười vạn ức Phật trong những phương khác.

Mười vạn ức ở đây cũng là nói phương tiện, chứ thật ra chẳng phải chỉ có mười vạn ức, nói như vậy nhằm thích hợp với những người vãng sanh từ Thế Giới Ta Bà, tình ý rất sâu, chẳng bỏ được quê nhà, mỗi ngày đều có thể quay về nhìn ngó, đồng thời cúng dường mười vạn ức Phật ở những phương khác. Đủ thấy họ có thuật phân thân. Những người vãng sanh Tây Phương đều có năng lực này.

Cúng Phật phước đức lớn nhất, mỗi ngày nghe Phật thuyết pháp, thiện căn, phước đức ngày ngày tăng trưởng, chúng ta cũng chẳng thể nào tưởng tượng được. Tại Tây Phương thành Phật dễ dàng, đạo lý là ở chỗ này. Từ Kinh Điển, chúng ta đọc thấy khi Thích Ca Mâu Ni Phật giảng Kinh, thuyết pháp, trong thính chúng có người vừa nghe một nửa bộ Kinh đã chứng quả.

Nếu nghe hết thảy Chư Phật thuyết pháp, lẽ đâu chẳng đại triệt đại ngộ?

Sanh về các Cõi Phật khác, chỉ nghe một vị Phật thuyết pháp, còn tại Tây Phương có thể tham lễ, nghe Kinh, nghe pháp với khắp các vị Phật, chẳng thể so sánh được.

Sáng dậy đi cúng dường Chư Phật, lúc quay trở về nhằm đúng lúc ăn cơm trưa. Ăn xong tản bộ, cuộc sống tiêu dao, tự tại. vãng sanh Tây Phương thì phạm vi hoạt động là tận hư không, trọn pháp giới, nguyện lực tương ứng với A Di Đà Phật.

Giải: Nhạc thị thanh trần. Địa thị sắc trần. Hoa thị sắc, hương nhị trần. Thực thị vị trần. Thịnh hoa, tán hoa, kinh hành thị xúc trần. Chúng sanh ngũ căn đối ngũ trần khả tri. Thường tác giả, tức lục thời dã. Hoàng kim vi địa giả, thất bảo sở nghiêm địa giới.

Thể thị hoàng kim dã. Nhật phân sơ, trung, hậu, danh trú tam thời. Dạ phân sơ, trung, hậu, danh dạ tam thời. Cố vân trú dạ lục thời.

Nhiên bỉ độ y chánh các hữu quang minh, bất giả nhật nguyệt, an phân trú dạ?

Thả thuận thử phương, giả thuyết phân tế nhĩ.

Giải: Nhạc là thanh trần, đất là sắc trần, hoa là hai trần sắchương. Thức ăn là vị trần. Đựng hoa, rải hoa, kinh hành là xúc trần.

Ta có thể nhận biết đây là Kinh Văn đem ngũ căn của chúng sanh đối ứng ngũ trần. Thường tấu là suốt cả sáu thời. Vàng ròng làm đất là cõi đất được trang nghiêm bằng bảy báu, thể là vàng ròng. Ngày chia thành sơ, trung, hậu, gọi là ngày ba thời. Đêm chia thành sơ, trung, hậu, gọi là đêm ba thời.

Vì thế, nói: Ngày đêm sáu thời.

Nhưng y báo và chánh báo trong cõi ấy mỗi thứ đều có quang minh, chẳng cần đến mặt trời, mặt trăng, há chia thành ngày đêm?

Chỉ thuận theo phương này mà giả nói có phân chia thời hạn vậy. Trong Thế Giới Ta Bà, đối tượng nhận thức của năm căn được quy nạp thành năm loại lớn, tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đều chẳng thanh tịnh. Do vậy, dùng chữ trần để biểu thị. Trần bụi bặm có nghĩa ô nhiễm. Cái bàn hai ngày không lau sẽ phủ một lớp bụi.

Đức Phật nói năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc ô nhiễm tâm thanh tịnh và bản tánh của chúng ta. Vì thế gọi là trần. Tây Phương cũng có năm thứ này, nhưng hoàn toàn chẳng ô nhiễm, vì thế gọi là thắng diệu ngũ trần. Thắng diệu, nhiệm mầu tột bậc ở chỗ chẳng ô nhiễm. Ngũ căn của chúng ta tiếp xúc ngũ trần, kết quả có thể suy ra được.

Chữ thường tác ý nói: Ngày đêm sáu thời không gián đoạn.

Hoàng kim vi địa: Chẳng qua là dùng tất cả những thứ đang có trong Thế giới của chúng ta làm tỷ dụ để nói, chứ vàng của chúng ta mà đem so với vàng trong Tây Phương Thế Giới thì bất luận chất lượng, màu sắc, quang minh đều chẳng thể sánh bằng. Ngày chia làm sơ, trung, hậu, gọi là ngày ba thời. Đêm chia làm sơ, trung, hậu, gọi là đêm ba thời.

Đấy là cách chia thời gian ở Ấn Độ như trong phần trước đã giải thích. Y báo và chánh báo trong Tây Phương Thế Giới mỗi thứ đều có quang minh. Thế giới ấy được gọi là Thế giới quang minh, không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chẳng chia ra ngày và đêm nên không có quan niệm thời gian. Quan niệm không gian cũng chẳng có.

Tây Phương Thế Giới có đường đi, nhưng không tên đường, số nhà. Đây kia có thể giao tiếp bằng cách dung tâm cảm. Phật nói ngày đêm sáu thời là thuận theo phương này mà giả nói có phân chia như vậy.

Giải: Mạn đà la, thử vân Thích Ý, hựu vân Bạch Hoa. Y kích thị thịnh hoa khí. Chúng diệu hoa, minh phi Mạn đà la nhất chủng. Ưng như Diệu Kinh tứ hoa, biểu tứ nhân vị. Cúng dường tha phương Phật, biểu chân nhân hội xu cực quả, quả đức vô bất biến dã. Thả cứ Ta Bà ngôn thập vạn ức Phật, ý hiển sanh Cực Lạc dĩ, hoàn cúng Thích Ca, Di Lặc, giai bất nan nhĩ.

Nhược A Di thần lực sở gia, hà viễn bất đáo tai.

Giải: Mạn đà la, cõi này dịch là Thích Ý, còn dịch là Bạch Hoa. Y kích là dụng cụ đựng hoa. Chúng diệu hoa chỉ rõ chẳng phải chỉ có một loại hoa Mạn đà la. Hãy nên hiểu là bốn loại hoa như trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhằm biểu thị bốn địa vị tu nhân. Cúng dường Phật ở phương khác biểu thị do nhân chân thật sẽ tiến đến quả cùng tột, quả đức không gì chẳng trọn khắp.

Hơn nữa, dựa theo Ta Bà mà nói mười vạn ức Phật, nhằm nêu rõ ý: Đã sanh về Cực Lạc, trở về cúng dường Thích Ca, Di Lặc đều chẳng khó khăn gì.

Nếu được thần lực của A Di Đà Phật gia bị thì xa cách mấy mà chẳng đến được ư?

Mạn đà la, Hán dịch là Thích Ý, còn dịch là Bạch Liên Hoa. Y kích là dụng cụ đựng hoa. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói bốn thứ hoa cũng nhằm biểu thị pháp, mỗi thứ đều có vô lượng phẩm loại, tùy ý thích của mỗi người mà biến hóa.

Cúng dường tha phương Phật, biểu chân nhân hội xu cực quả, quả đức vô bất biến dã cúng dường Chư Phật ở phương khác nhằm biểu thị do cái nhân chân chánh sẽ tiến đến cái quả tột cùng, quả đức không gì chẳng trọn khắp.

Tây Phương Thế Giới hoàn toàn dùng chân Phật, chân sự để làm cảnh giới sở duyên, chẳng giống như chúng ta vẽ một bức Tượng Phật. Tượng Phật chẳng phải là Phật thật. Trong Tây Phương Thế Giới, hoàn toàn là thật, lại còn thật sự là báo thân viên mãn, chứ không phải ứng hóa thân.

Do vậy, thành Phật nhanh chóng, không có bất cứ chướng ngại nào, nguyên nhân là do điều này. Trong những Thế giới khác chẳng dễ gì thấy Phật, ngay như thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, các vị đệ tử thường tùy chúng là một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, hoàn toàn không phải là mỗi người ngày nào cũng có cơ hội thỉnh giáo. Nếu lấy cảnh giới của Phật làm nhân địa tu hành của chính mình thì sẽ có thể thành tựu Phật quả viên mãn.

Ân đức của Phật Thích Ca đối với chúng ta rất lớn. Trong tương lai, Đức Thích Ca đã diệt độ, Di Lặc thành Phật, nếu quý vị đã sanh về Tây Phương mà vẫn còn muốn trở lại Ta Bà nhìn ngó người nhà, quyến thuộc thì mỗi ngày đều có thể trở về.

Người Tây Phương thiên nhãn thấy thấu suốt, thiên nhĩ nghe thông suốt. Túc mạng thông của A La Hán chỉ có thể biết chuyện trong năm trăm đời. Năng lực của thiên nhãn chỉ giới hạn trong một tiểu thiên Thế giới, không thể thấy đến một trung thiên Thế giới.

Người đới nghiệp vãng sanh vào Tây Phương Thế Giới, chưa đoạn kiến tư phiền não, thiên nhĩ của họ có thể nghe thấu âm thanh ngoài mười vạn ức Cõi Phật, thiên nhãn cũng giống như thế. Tha tâm thông có thể biết khởi tâm động niệm của chúng sanh ở ngoài mười vạn ức Cõi Phật. Năng lực ấy chẳng phải do chính mình tu được, mà là do bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì.

Do vậy, Đại Sư nói: Nhược A Di thần lực sở gia, hà viễn bất năng đáo. Nếu được thần lực của A Di Đà Phật gia trì thì xa đến đâu mà chẳng thấu tới.

Giải: Thực thời, tức thanh đán, cố vân tức dĩ, minh kỳ thần túc bất khả tư nghị. Bất ly bỉ độ, thường biến thập phương, bất giả du thời hồi hoàn dã.

Thử văn hiển Cực Lạc, nhất thanh, nhất trần, nhất sát na, nãi chí khóa bộ, đàn chỉ, tất dữ thập phương Tam Bảo, quán triệt vô ngại. Hựu, hiển tại Ta Bà, tắc trược trọng ác chướng, dữ Cực Lạc bất cách nhi cách, sanh Cực Lạc, tắc công đức thậm thâm, dữ Ta Bà cách nhi bất cách dã.

Giải: Thực thời chính là lúc sáng sớm, nên nói tức dĩ liền ngay, chỉ rõ thần túc chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng lìa cõi ấy mà thường trọn khắp mười phương, chẳng mất thời gian quay trở lại. Đoạn văn này nêu rõ một thanh, một trần, một sát na, thậm chí cất bước, khảy ngón tay trong cõi Cực Lạc đều cùng với mười phương Tam Bảo quán triệt vô ngại.

Lại còn, chỉ rõ trong Ta Bà, trược nặng, ác chướng, chẳng cách ngăn Cực Lạc mà thành ngăn cách. Sanh về Cực Lạc, công đức rất sâu, tuy cách ngăn Ta Bà mà chẳng hề ngăn cách.

Trong sáu thứ thần thông, có một thứ gọi là thần túc thông. Thần là thần kỳ chẳng thể lường, chẳng thể suy nghĩ được. Túc là viên mãn, biểu thị biến hóa tự tại.

Truyện Tây Du Ký nói Tôn Ngộ Không có bảy mươi hai phép biến hóa, đấy chính là thần thông. Người sanh về Tây Phương nghe Kinh, nghe pháp trong giảng đường của A Di Đà Phật, đồng thời phân thân đến khắp các Cõi Phật trong mười phương để cúng Phật, độ chúng sanh, đi về tự tại.

Phân thân đến mười phương Thế giới, ở lại đó một thời gian tùy theo duyên của chúng sanh. Hết thảy chúng sanh sanh về Tây Phương đều viên mãn đầy đủ sáu thứ thần thông, đều cùng mười phương Tam Bảo quán triệt vô ngại, một thanh, một trần, một sát na, cho đến trong một động tác nhỏ nhặt trong khoảng thời gian khảy ngón tay trong cuộc sống thường nhật, tùy tiện lấy một pháp nào cũng là toàn thể pháp giới.

Do vậy, mười phương ba đời hết thảy Chư Phật Như Lai không ngừng hướng về hành giả nói pháp là chuyện có thể xảy ra. Bởi lẽ, hết thảy vô ngại. Như trong Kinh đại thừa có nói trong một đầu lông chuyển đại pháp luân, không có mảy may chướng ngại nào.

Kinh Hoa Nghiêm bảo một chính là nhiều, nhiều chính là một. Một và nhiều viên dung, tự tại vô ngại. Hựu hiển tại Ta Bà, tắc trược trọng ác chướng, dữ Cực Lạc bất cách nhi cách.

Lại nữa, hiển thị trong cõi Ta Bà, do trược nặng, ác chướng, chẳng cách ngăn Cực Lạc mà thành ngăn cách.

Thế giới này của chúng ta ô nhiễm rất nặng, các nhà khoa học đã đưa ra lời cảnh cáo: Nếu chẳng cấp tốc giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường, năm mươi năm sau, quả địa cầu sẽ chẳng thích hợp cho con người sống nữa. Có thể đạt được hiệu quả hay không, tôi cảm thấy hết sức khó khăn.

Nhà Phật nói: Y báo chuyển theo chánh báo. Y báo là hoàn cảnh, chánh báo là lòng người. Trong tâm chúng ta bị ô nhiễm còn nghiêm trọng hơn hoàn cảnh bị ô nhiễm.

Do tư tưởng, kiến giải của chúng ta sai lầm mà dẫn đến những hành vi sai lầm. Muốn cầu xã hội an định, ắt phải dốc sức tịnh hóa lòng người. Trong giai đoạn hiện thời này, hết sức khó khăn. Người tạo thập ác trong xã hội rất nhiều.

Trước kia, tạo thập ác còn có tâm hổ thẹn, hiện thời lại coi đó như một hiện tượng bình thường. Do Thế Giới Ta Bà có những thứ trược nặng, ác chướng ấy, cho nên xa cách Cực Lạc. Hai Thế giới chẳng ngăn cách mà thành ngăn cách.

Trong các bộ Cao Tăng Truyện và Cư Sĩ Truyện của Trung Quốc, có không ít người đã được chứng kiến cảnh giới của Thánh Nhân, như câu chuyện Thiền Sư Pháp Chiếu của Tịnh Độ Tông đến Đại Thánh Trúc Lâm Tự ở Ngũ Đài Sơn, thấy Văn Thù Bồ Tát mà tôi đã nhắc đến trong phần Huyền Nghĩa.

Sau khi Bồ Tát thuyết pháp xong, Sư hướng về Văn Thù Bồ Tát thưa hỏi: Trong thời kỳ mạt pháp, chúng sanh tu pháp nào thì thích hợp?

Văn Thù Bồ Tát bảo: Tu Pháp Ngũ Hội Niệm Phật là thích hợp nhất. Văn Thù Bồ Tát còn niệm mấy câu cho Sư nghe. Ngài Pháp Chiếu vốn học Thiền, qua cuộc kỳ ngộ ấy, bèn chuyên Tu Tịnh Độ. Về sau, Ngài trở thành Tổ Sư đời thứ bốn của Tịnh Độ Tông.

Thế giới này của chúng ta là Cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Ngài Văn Thù là Thánh Nhân, chúng ta không thấy được. Tuy không ngăn cách với chúng ta mà thành ngăn cách. Trong Cao Tăng Truyện, những tình huống giống như vậy rất nhiều. Lại như trong Tam Muội Thủy Sám, Quốc Sư Ngộ Đạt gặp Tôn Giả Ca Nặc Ca, cũng như hoa Đàm thoáng hiện.

Giải: Phạn thực kinh hành giả, niệm thực, thực chí, bất giả an bài. Thực tất, bát khứ, bất lao cử thức. Đản kinh hành kim địa, hoa nhạc ngu lạc, nhậm vận tấn tu nhi dĩ.

Giải: Phạn thực kinh hành là nghĩ tới ăn, đồ ăn hiện tới, chẳng mất công xếp đặt. Ăn xong, bát biến mất, chẳng mất công lau, cất. Chỉ kinh hành trên đất vàng, vui hưởng hoa, âm nhạc, tùy ý tấn tu mà thôi.

Đoạn này giảng đại lược về tình hình cuộc sống của đại chúng trong Tây Phương Thế Giới. Trong phần trên, tôi đã có nói, từ Cõi Trời Sắc Giới trở lên, không có ham muốn ăn uống.

Từ Dục Giới thiên trở xuống, ai nấy đều chẳng thể tránh khỏi Ngũ Dục. Trong Sắc Giới Thiên, từ tầng Trời Sơ Thiền trở lên, chẳng có ngũ dục, lấy thiền duyệt làm thức ăn. Tây Phương Thế Giới vượt trỗi Chư Thiên rất nhiều, mười tám tầng Trời của Sắc Giới trong cõi Ta Bà trọn chẳng thể sánh bằng.

Thanh Văn, Duyên Giác cũng chẳng thể sánh bằng. Phàm phu đới nghiệp vãng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay có tập khí này, chẳng thể đoạn được, có lúc khởi lên ý niệm muốn ăn cơm. Ý niệm vừa dấy, cảnh giới liền hiện tiền, hết thảy thụ dụng thuận theo ý nghĩ hiện ra, chẳng cần phải sắp đặt. Ăn xong, bát biến mất, chẳng mất công rửa chén, rửa đũa.

Hết thảy thụ dụng trong Tây Phương Thế Giới đều ứng theo ý nghĩ mà xuất hiện, bất luận hoàn cảnh vật chất hay hoàn cảnh nhân sinh đều thù thắng nhất. Từ đây, ta có thể biết rõ tình trạng cuộc sống hằng ngày của các vị thượng thiện nhân.

Kinh: Xá Lợi Phất! Cực Lạc Quốc Độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

Chánh Kinh: Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế đấy. Người đới nghiệp vãng sanh hoàn toàn dựa vào công đức gia trì từ bổn nguyện của A Di Đà Phật, điều khó có gì đáng quý hơn là họ có thể tùy ý phân thân qua lại các Cõi Phật trong mười phương, cúng Phật, nghe pháp, độ sanh, giống như các vị pháp thân Đại Sĩ chẳng hai, chẳng khác.

Như Quán Kinh và Vô Lượng Thọ Kinh đã dạy, phàm ai vãng sanh đều có năng lực gần giống như Phật. Phật có thể từ trong tay biến hiện vật dụng thường ngày, như quần áo, thức ăn và tràng, phan, lọng báu, hoa Trời, âm nhạc để cúng Phật và cũng đồng thời lợi ích hết thảy chúng sanh. Mười phương Thế giới chẳng có việc này, chỉ riêng Tây Phương là như thế.

Kinh: Phục thứ, Xá Lợi Phất! Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu Tạp Sắc Chi Điểu, Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, cộng mạng chi điểu.

Thị Chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn sướng ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát Thánh Đạo phần, như thị đẳng pháp. Kỳ độ chúng sanh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Chánh Kinh: Lại này, Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có các loài chim nhiều màu, kỳ diệu như bạch hạc, chim công, chim vẹt, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, cộng mạng. Những con chim ấy ngày đêm sáu thời hót tiếng hòa nhã. Tiếng hót ấy diễn nói thông suốt ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát Thánh đạo phần... những pháp giống như vậy. Chúng sanh cõi ấy nghe tiếng ấy rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Phần đẹp đẽ tinh diệu nhất trong cuộc sống của đại chúng ở Tây Phương Thế Giới chính là thuyết pháp trang nghiêm. Giống như trong một trường học, sinh hoạt thường ngày của thầy và trò là học tập. Thời gian đẹp nhất của con người là lúc đi học, hễ bước chân ra xã hội khổ nạn trùng trùng.

Người trong Tây Phương Thế Giới cuộc sống hết sức tự tại, có thể học môn gì mình thích học, làm những chuyện mình thích làm. Trong nhà trường, lúc vào lớp, hoặc khi nghe thầy thuyết pháp hết sức nghiêm túc, ắt phải cung kính. Hễ có chút tùy tiện nào liền cảm thấy thiếu tôn kính, oai nghi bị khiếm khuyết. A Di Đà Phật hiểu tâm lý của chúng sanh.

Do vậy, biến hóa rất nhiều loài chim để thuyết pháp khiến cho mọi người có thể tùy ý nghe pháp, chẳng bị bó buộc mảy may nào. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã, diễn nói các pháp. Đại chúng muốn nghe pháp nào, chúng liền nói pháp ấy.

Kỳ âm diễn sướng ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát Thánh đạo phần, như thị đẳng pháp. Âm thanh ấy diễn nói thông suốt ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát Thánh đạo phần, các pháp giống như vậy. Mấy câu này bao gồm hết thảy giáo nghĩa đại tiểu thừa.

Nghe Phật Pháp xong, tâm an, lý đắc, tâm an thì không có tạp niệm, mọi ý niệm thảy đều là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Ngũ căn, ngũ lực v.v... là nói đến Thánh Giáo, còn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là nói tới tu hành.

Giải: Chủng chủng kỳ diệu tạp sắc, ngôn đa thả mỹ dã. Hạ lược xuất lục chủng. Xá Lợi, cựu vân Thu Lộ, Kỳ Thiền Sư vân thị Xuân Oanh, hoặc nhiên. Ca Lăng Tần Già, thử vân Diệu Âm, vị xuất xác thời, âm siêu chúng điểu. Cộng mạng, nhất thân, lưỡng đầu, thức biệt, báo đồng.

Thử nhị chủng, Tây Vực Tuyết Sơn đẳng xứ hữu chi, giai ký thử gian ái thưởng giả, ngôn kỳ tự nhi dĩ. Lục thời xuất âm, tắc tri Tịnh Độ bất dĩ điểu thê vi dạ. Lương dĩ Liên Hoa thác sanh chi thân, bổn vô hôn thùy, bất giả dạ ngọa dã. Ngũ căn đẳng giả, tam thập thất đạo phẩm dã. Sở vị tứ niệm xứ, nhất thân niệm xứ, nhị thọ niệm xứ, tam tâm niệm xứ, tứ pháp niệm xứ.

Giải: Chủng chủng kỳ diệu tạp sắc ý nói các loài chim trong cõi Cực Lạc đã nhiều còn đẹp. Tiếp đó, Kinh nêu đại lược sáu loại.

Xá Lợi, thời cổ dịch là Thu Lộ, Kỳ Thiền Sư nói nó chính là chim Xuân Oanh, chắc có lẽ là đúng. Ca Lăng Tần Già, cõi này dịch là Diệu Âm. Chim này khi chưa ra khỏi vỏ trứng, tiếng hót của nó đã vượt trỗi các loài chim khác.

Cộng Mạng là chim có hai đầu một thân, mỗi đầu có thần thức khác biệt, nhưng có chung một báo thân. Hai loại chim này có ở những nơi như Tuyết Sơn v.v... bên Tây Vực.

Đều là mượn tên những loài chim được yêu thích, tán thưởng trong cõi này để tạm mô tả những loài chim trong cõi Cực Lạc mà thôi. Do Kinh chép sáu thời vang tiếng hót nên biết là trong Tịnh Độ chẳng coi chim đậu là đêm. Ấy là vì thân sanh từ hoa sen sanh ra, vốn chẳng có buồn ngủ, nên đêm chẳng cần ngủ.

Ngũ Căn v.v... là nói về ba mươi bảy đạo phẩm, nghĩa là: Tứ niệm xứ gồm một là thân niệm xứ, hai là thọ niệm xứ, ba là tâm niệm xứ, bốn là pháp niệm xứ. Chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu nghĩa là chủng loại rất nhiều.

Tiếp đó, Kinh Văn chỉ nêu đại lược sáu loài. Bạch hạc, chim công, chim vẹt, đều là những thứ ai cũng biết, chẳng cần phải bàn tới. Xá Lợi Śāri, thời cổ dịch là Thu Lộ, Kỳ Thiền Sư đời Tống bảo nó là chim Xuân Oanh, cũng có lý.

Ca lăng tần già, Kalavinka là tiếng Phạn, dịch thành Diệu Âm. Khi chim chưa ra khỏi vỏ trứng đã có thể hót tiếng du dương. Cộng Mạng Jivajivaka là loại chim một thân hai đầu, có hai thần thức. Tại Trung Quốc, chưa hề thấy loại chim này.

Tương truyền, ở núi Hỷ Mã Lạp Nhã Himalaya có loại chim này. Nhằm ứng với những loài chim xinh đẹp người đời ưa thích, A Di Đà Phật dùng thần lực biến hiện nhiều loài chim đẹp đẽ chẳng có trong nhân gian.

Do Tây Phương không có tối tăm, nên loài cầm điểu thuyết pháp suốt ngày đêm sáu thời không gián đoạn. Người trong cõi Tây Phương Liên Hoa hóa sanh, vốn không ngủ nghỉ. Vì thế, ăn uống lẫn ngủ nghê đều chẳng cần. Khi tinh thần con người sung mãn thì thời gian ngủ rất ít.

Người thật sự có công phu, ít vọng niệm, ít phiền não, tinh thần bị tiêu hao cũng ít. Thuở Đức Phật tại thế, quy định các đệ tử chỉ ngủ trong lúc trung dạ, tức là mười giờ đi ngủ, hai giờ đêm thức dậy. Hiện thời có người ngủ tám tiếng vẫn chưa đủ, lãng phí thời gian tốt đẹp nhất, thật là đáng tiếc. Hễ tinh thần tốt đẹp, nhất định cuộc sống sẽ sung sướng.

Ngũ căn đẳng giả, tam thập thất đạo phẩm dã. Ngũ căn v.v... là ba mươi bảy đạo phẩm. Câu này là nói tổng quát. Trong Kinh chỉ nói bốn thứ ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát Thánh đạo phần. Ba mươi bảy đạo phẩm được chia thành bảy loại, Ngẫu Ích Đại Sư bổ sung ba thứ còn lại để nói.

Ba thứ ấy là tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc. Thông thường, chúng ta chỉ biết ba mươi bảy đạo phẩm là pháp tiểu thừa. Thật ra, pháp này chung cho cả tiểu thừa lẫn đại thừa.

Trong Kinh Niết Bàn, Đức Phật dạy: Nếu ai có thể quán Bát chánh đạo thì sẽ minh tâm kiến tánh. Câu này giảng rõ ba mươi bảy đạo phẩm là pháp đại thừa. Trong Đại Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tát cũng nói ba mươi bảy phẩm không gì chẳng thâu nhiếp, vô lượng đạo phẩm đều nằm trong ấy. Ngài còn nói ba mươi bảy đạo phẩm bao gồm hết thảy Phật pháp đại thừa.

Tây Phương là đại thừa viên đốn, há có tiểu thừa ư?

Tứ niệm xứ thuộc về quán trí, người ta thường gọi là nhân sinh quan, vũ trụ quan. Trong ấy có mê, có ngộ. Niệm là trí huệ quán sát, chứ không phải ý niệm.

Chữ xứ chỉ cảnh giới được quán. Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc có ích rất lớn cho người sơ học. Thường có người nói tu học rất lâu, niệm Phật, Tham Thiền, Trì Chú, tu định, công phu đều chẳng đắc lực, nguyên nhân là vì đã coi thường ba phương pháp tu học cơ bản này.

Nhưng vì sao trong Kinh Đức Phật chẳng nói tới ba thứ này, mà lại bắt đầu bằng ngũ căn, ngũ lực?

Vì ngũ căn, ngũ lực là pháp của người trong Cõi Tây Phương tu hành. Họ đã tu ba môn trước rồi, không cần phải nói lại nữa. Nhưng đối với hàng sơ học chúng ta thì nhất định phải nói rõ.

Tứ niệm xứ là:

1. Quán thân bất tịnh: Thân chẳng sạch sẽ. Người tu hành lợi dụng thân thể để thành tựu đạo nghiệp, chẳng cần phải đắm đuối nó. Người thế gian lợi dụng nó để tạo nghiệp, đáng tiếc quá. Những thứ do thân thể bài tiết ra đều không sạch sẽ.

Quán thân thể của chính mình bất tịnh, chẳng đáng tham ái, thì làm sao tham ái thân thể của người khác cho được?

Muốn buông xuống hết thảy thân, tâm, Thế giới thì phải bắt đầu từ cái thân của chính mình. Chẳng còn phải nhọc lòng vì cái thân thể này nữa thì mới có thể dưỡng sinh tốt đẹp. Người biết dưỡng sinh ít bệnh tật, có thể trường thọ. Thân thể con người và toàn thể vũ trụ là một.

Thuận theo tự nhiên sẽ mạnh khỏe. Chẳng hạn như thức ăn trong mùa Đông phải ăn đồ mát, mùa Hạ phải ăn đồ nóng. Hiện thời con người làm ngược lại, hoàn toàn chẳng tương ứng với tự nhiên.

Vì vậy, trăm thứ bệnh đổ ra. Thiên Nguyệt Lệnh trong bộ sách cổ Lễ Ký của Trung Quốc có nói về cách sinh sống, ăn ở, một năm bốn mùa mười hai tháng, mỗi tháng ăn gì đều ghi chép tường tận. Cách ăn và dùng loại củi nào để nấu đều quy định cặn kẽ, những điều này gần như đã thất truyền.

Nguyên tắc dưỡng sinh trong Phật Pháp là coi thân thể như một cỗ máy, thân phải động, tâm phải tịnh. Hiện thời, thân mọi người bất động, cốt sao nhàn hạ, sung sướng cái thân, còn tâm thì suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, hết sức tương phản. Người trong cõi Tây Phương thân Kim Cang bất hoại, chẳng cần ăn uống nên không bị bệnh tật.

2. Quán Thọ thị khổ: Con người suốt đời phấn đấu là vì lẽ gì?

Đạt được gì?

Đến tuổi già càng khổ, sống rất quạnh quẽ. Những chung cư dành cho người nhà ở Mỹ chăm sóc người già kể ra cũng chu đáo, nhưng vẫn khó tránh khỏi bệnh tật rề rề, khổ vì nằm bẹp giường, chỉ ngồi ăn đợi chết mà thôi.

Đức Phật nói tam giới đều khổ. Cũng có lúc vui, nhưng thời gian vui chẳng dài, vui rồi lại khổ nên gọi là hoại khổ, chẳng khổ chẳng vui là hành khổ, vì nó dời đổi không ngừng, biến hóa vô thường.

Nói thật đấy! Người học Phật cuộc sống khác hẳn, có viễn cảnh tương lai sáng sủa. Niệm Phật thân tâm thanh tịnh, đọc Kinh sẽ khai ngộ.

Huống chi Kinh dạy: Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai, nhất định thấy Phật. Cư Sĩ Bành Tế Thanh đã chép trong Vãng Sanh Truyện chẳng ít vị nam nữ tại gia cư sĩ lúc lâm chung biết trước lúc mất. Nói chung những người ấy sống vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh.

Bốn chục năm qua, tại Đài Loan, tôi đích thân mắt thấy tai nghe người đứng qua đời, người ngồi mà mất, chứng tích đều hãy còn, tuyệt đối chẳng phải là bịa chuyện.

3. Quán tâm vô thường: Người thế gian khổ nhất là ý niệm nẩy sanh không ngừng. Đấy là tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay, đó cũng là nhân tạo nên luân hồi trong lục đạo. Phật Giáo tuy có nhiều pháp môn, nhưng đều nhằm mục đích tu định, phương pháp khác nhau, nhưng mục đích là một.

Định là bổn tâm, ý niệm là vọng tâm. Làm thế nào để trừ bỏ vọng tâm, khôi phục bổn tâm, đấy là công phu thật sự. Vọng tâm là cội nguồn của hết thảy vọng tưởng, phiền não.

Chẳng những khi thức nó nẩy sanh liên tục không ngừng, mà khi ngủ nó cũng biến thành mộng. Vọng tâm sanh diệt trong từng sát na, thấy hết thảy cảnh giới đều là sanh diệt. Trong Kinh Phật nói hết thảy pháp bất sanh bất diệt, chúng ta nhìn không ra. Phật dùng Định tâm chẳng sanh diệt nên thấy hết thảy pháp bất sanh bất diệt.

Chúng ta dùng cái tâm sanh diệt để nhìn hết thảy pháp nên hết thảy pháp đều có sanh diệt. Chẳng hạn như, hết thảy động vật đều có sanh, lão, bệnh, tử. Đức Phật nói bất sanh bất diệt là thật, sanh diệt là giả. Không có ý niệm là nhất tâm, những gì được hiện bởi nhất tâm là chân. Đấy là nhất chân pháp giới. Hễ ý niệm dấy lên thì sẽ thấy mười pháp giới.

Vọng tâm vô thường, hãy nên bỏ đi, phải tích cực tu định, người trong Thế giới Tây Phương đều giữ được chân tâm thường trụ. Thường trụ là bất động. Chúng ta tập khí nặng nề, lại thêm hoàn cảnh quyến rũ, mê hoặc, khó thể thường trụ bất động.

4. Quán pháp vô ngã: Ba thứ đầu trong tứ niệm xứ thuộc về nhân sinh quan của bản thân chúng ta. Loại thứ bốn chính là Vũ Trụ quan. Chữ ngã trong quán pháp vô ngã có nghĩa là tự tại.

Kinh Kim Cang dạy: Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng.

Kinh còn dạy: Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng. Đấy là quán pháp vô ngã. Mọi người thường cho rằng hết thảy pháp đều có thật. Do vậy, khởi lên lắm thứ phiền não như tham, sân, si, mạn. Kẻ ngu muội ngỡ thân có thật, hết thảy vạn vật cũng có thật.

Do vậy, hết sức đoạt lấy, tạo tác thập ác, chẳng mảy may cân nhắc, e dè, nhưng tạo nghiệp ắt có quả báo. Đời sau phải đền trả, sợ rằng phải mang lông đội sừng.

Người đầu óc tỉnh táo chẳng tạo ác nghiệp, biết đời người sống trong cõi này, hết thảy thụ dụng đều có số mạng định sẵn, chẳng cần phải mong cầu xằng bậy. Kẻ thông minh hơn thì biết tuy số mạng đã định sẵn, nhưng làm lành có thể xoay chuyển số mạng. Bậc có đại trí huệ có thể thoát khỏi tam giới, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi.

Tứ niệm xứ thuyết minh chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Người học Phật trọn chẳng có ưu lự, chẳng vì riêng mình mà tính toán tương lai, đoạn ác, tu thiện, hết thảy tạo tác chẳng suy tính cho chính mình, mà nghĩ tưởng cho đại chúng. Hành như thế thì hoàn cảnh sinh hoạt ắt sẽ mỗi ngày chuyển biến dần dần tốt đẹp hơn.

Dẫu trong đời trước có oan gia đối đầu thì đến cuối cùng cũng biến thành bạn tốt, hết thảy chướng ngại cũng dần dần hóa giải. Đời sống phải chú trọng tiết kiệm, tiết kiệm một phần sẽ có thể giúp đỡ người khác một phần.

Điều này có thể thực hiện được, chứ không phải là một yêu cầu cao xa gì. Do chúng ta coi thường bốn cách tu trì này mà công phu chẳng đắc lực, trí huệ chẳng mở mang, tam muội chẳng thành.

Nếu lưu ý những điều này, buông thân, tâm, Thế giới xuống, hy sinh mình vì người khác thì chẳng những công phu đắc lực, mà còn tăng trưởng phước huệ, tín tâm ngày càng mạnh, trong cuộc sống sẽ cảm nhận được nhiều cảm ứng, những thứ cảm ứng ấy tuyệt đối là chân thật, chẳng hư dối.

A Di Đà Phật!

***