Ñeä Töû Quy laø tri thöùc cuûa ngöôøi xöa ñeå laïi.
Toå Tieân nhaân haäu giuùp ñôõ cho neân
Quoác Gia, xaõ hoäi, ñôøi soáng cuûa Quyù vò
khi thöïc haønh seõ ñöôïc keát quaû toát ñeïp

detuquy.edu.vn

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI - TẬP CHÍN

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM THANH TỊNH

BÌNH ĐẲNG GIÁC GIẢNG GIẢI

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP CHÍN
 

Dòng chót từ câu thứ hai bắt đầu xem.

Thế Gian Tự Tại Vương Phật, tri kỳ cao minh, chí nguyện thâm quảng. Tức vi tuyên thuyết, nhị bá tức thập ức, Chư Phật sát độ. Công đức nghiêm tịnh quảng đại viên mãn chi tướng, ưng kỳ tâm nguyện, tất hiện dử chi. Thuyết thị pháp thời, Kinh thiên ức tuế.

Phía trước, Pháp Tạng Tỳ Kheo, sau khi hướng về thầy của Ngài trần thuật nguyện vọng của mình, tiếp theo đó là thỉnh pháp.

Thầy vô cùng từ bi, biết Ngài rất cao minh, cao là nói đức cao, minh là nói trí tuệ, người học trò này có phẩm đức cao thượng, có trí tuệ sâu rộng, càng khó có được là chí nguyện sâu rộng của Ngài, hiển thị lòng từ bi chân thật vô tận của Ngài. Vì vậy, nên liền đáp ứng lời khải thỉnh mà vì Ngài thuyết pháp, vì Ngài tuyên thuyết.

Đến chỗ này thì văn tự so ra đơn giản hơn, thời gian giáo học của Phật dài lâu, chỉ vài câu thì lướt qua hết, vì Ngài tuyên nói hai trăm mười ức Chư Phật sát độ.

Bởi vì Ngài Pháp Tạng yêu cầu nên Phật mới nói với Ngài về sự việc trang nghiêm của tất cả Chư Phật sát độ. Vậy mục đích của Ngài là ở trong này để lựa chọn, gom tập Chư Phật chúng thiện đại thành, để xây dựng một Đạo tràng tu học lý tưởng của Ngài.

Mục đích là ở chỗ này, trí tuệ thật là khó được, chí nguyện khó được, cấu trúc lý tưởng này của Ngài lại càng khó được. Cho nên Thế Gian Tự Tại Vương Phật vô cùng hoan hỷ, nói ra cho Ngài vài sự việc.

Phật nói đương nhiên đều là Kinh pháp, chỗ này chúng ta nên chú ý là hai trăm mười hai trăm mười ức, hai trăm mười ức theo con số mà nói thì chẳng phải quá nhiều, chẳng phải con số lớn nhưng ở chỗ này Ngài chẳng cho nó là con số để giảng.

Vậy cho là gì để giảng?

Là nghĩa biểu trưng, là biểu trưng trong Mật Tông. Mười sáu đại biểu cho viên mãn, anh xem. Bộ Kinh này của chúng ta vừa mới mở đầu trong phần Thượng Thủ đại chúng, chúng tại gia cư sĩ có mười sáu vị chánh sĩ.

Hiền hộ đẳng chánh sĩ, là đại diện cho viên mãn. Ngoài mười sáu ra hai mươi mốt cũng đại biểu viên mãn. Cho nên, chỗ này hai trăm mười ức là hai mươi mốt mở rộng ra. Nó là đại biểu cho nghĩa viên mãn.

Chẳng phải là con số, nếu là con số thì là quá nhỏ, trong cái thế giới vô lượng vô biên thì hai trăm mười ức này có được là bao. Đây là đại biểu tận hư không biến pháp giới sở hữu Chư Phật sát độ, một cái cũng không sót là biểu trưng cho ý nghĩa này.

Vậy thì cách nói này trong Kinh Hoa Nghiêm có nói đến, mối quan hệ giữa bổn Kinh và Kinh Hoa Nghiêm vô cùng mật thiết. Vậy cái biểu trưng này chúng ta có thể nói bổn Kinh cùng Kinh Hoa Nghiêm không hai không khác, trong Đại Chí Độ Luận cũng có cách nói này.

Cho nên con số hai trăm mười ức chúng ta phải xem như biểu trưng thì ý nghĩa mới có thể viên mãn, mới chính xác. Đây là Thế Gian Tự Tại Vương Phật có thể nói đã đem hư không pháp giới chỗ có tất cả Chư Phật sát độ, trạng huấn nhân quả bên trong đều thuyết minh tường tận cho Pháp Tạng Tỳ Kheo rồi.

Công đức bên trong sát độ này: Nghiêm là trang nghiêm, tịnh là thanh tịnh. Tướng quảng độ viên mãn đều nói rõ hết cho Ngài. Ứng kỳ tâm nguyện, tất hiện dử chi, tại chỗ này cũng hiện ra thần lực bất khả tư nghì của Phật, Phật chẳng những đã tường tận nói cho Ngài lại còn đem những Chư Phật sát độ này dùng thần lực biến hiện trước mắt Ngài, khiến Ngài tự mình nhìn thấy.

Đấy chính là người xưa Trung Quốc chúng ta chỗ gọi là đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường, đọc sách đây là thầy chỉ dạy đã nói với ông ta rồi.

Đây tức là đọc sách đem những tướng này hiện cho Ngài thấy điều này như là đi ngàn dặm đường khiến Ngài chính mình thấy được cảnh giới này. Giống như chúng ta hiện nay du lịch, ngắm cảnh, khảo sát.

Chính mình đến nơi đó xem một tí thì học vấn kiến thức này mới là chân thật chẳng phải hoàn toàn chỉ nghe truyền thuyết. Đây là chính mình thân hành đến để thấy được cảnh giới này.

Thuyết thị pháp thời, Kinh thiên ức tuế, Tự Tại Vương Phật dạy Pháp Tạng Tỳ Kheo, đã dạy được bao lâu rồi?

Con người lúc bấy giờ thọ mạng dài đã dạy ngàn ức năm vạn lần vạn là ức ngàn ức đây là nói thời gian dài lâu của sự học, chỉ dạy Ngài. Thời gian dài như vậy.

Ở chỗ này chúng ta nghĩ đến lời của Khổng Tử thường nói: Giáo bất yếm, thoái bất nguyện, tinh Thần giáo học của Khổng Lão Phu Tử chẳng mệt, chẳng chán.

Chúng ta ở chỗ này thấy được ngàn ức năm chẳng phải thời gian ngắn, cho nên nếu chẳng có tâm nhẫn nại thích hợp thì làm sao sự học này không thể thành tựu được?

Phật từ bi chỉ dạy chẳng mỏi mệt. Pháp Tạng phận làm học trò cũng rất phi thường, học mà không nhàm chán. Vậy thì đoạn này chúng ta thấy được sự cầu pháp của Ngài Pháp Tạng, quả thật Ngài đã đắc pháp rồi Phật thị môn trung hữu cầu tất ứng. Ngài quả đã đắc pháp.

Chúng ta lại xem tiếp phía dưới, phía dưới đoạn thứ ba là nói cách tu hành của Ngài. Nhĩ thời Pháp Tạng, văn Phật sở thuyết, văn là nghe, thính văn. Lời dạy bảo của Phật trong ngàn ức năm, nghe Phật chỗ nói giai tất đỗ kiến, vì rằng Phật mỗi khi nói đến một vị Phật, một Phật sát, Phật đều đem cái tướng ấy hiện ra cho Ngài xem, Ngài đều trông thấy cả.

Đây là thừa oai lực của Phật, mới có thể nghe được rõ ràng, thấy rõ ràng trong tâm rõ ràng minh bạch bạch.

Vậy nên mới phát khởi cái nguyện vô thượng thù thắng thì ra bốn mươi tám nguyện nổi tiếng là có cái lai lịch của nó. Nghe nhiều, xem nhiều trong tâm cảm xúc nhiều đây là văn thành tựu cũng là căn nguyên của bốn mươi tám lời nguyện mai phục ẩn tàng ở chỗ này.

Ư bỉ Thiên Nhân thiện ác, quốc độ thô diệu, tư duy cứu cánh, chỗ này chúng ta nên chú ý đến. Nơi đây có tư anh xem. Văn tư phần dưới đương nhiên nhất định có tu, đây là tam tuệ, tam tuệ của Bồ Tát.

Người ta là chân dụng công thật sự chịu làm, Thiên Nhân thiện ác là nhân, quốc độ thô diệu là quả báo nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai, thiện duyên nhất định được thiện quả, ác nhân nhất định được ác báo.

Quả báo của thập chân, Tứ Thánh pháp giới thì là diệu, vì người ta tu đó là thiện nhân còn lục đạo là thô, cái nhân của lục đạo phàm phu tu đó là bất thiện.

Tại trong lục đạo so sánh mà luận, nếu là thiện nhiều ác ít thì sao?

Đây tức là tam thiện đạo, so với tam ác đạo thì tốt hơn quá nhiều, nếu như ác nhiều thiện ít thì sẽ cảm được cảnh giới rất thô, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chúng ta gọi là tam ác đạo, đây là trạng huấn trong mười phương Chư Phật sát độ. Pháp Tạng Tỳ Kheo tất cả đều thấy được, tất cả đều hiểu rõ.

tư duy cứu cánh thiện nhất kỳ tâm. Tuyển trạch sở dục, kết đắc đại nguỵên. Tinh cần cầu sách, cung thận bảo trì.

Những chỗ này không những chúng ta hiểu rõ Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, làm thế nào mà có, có thể nói đoạn này là nói về lịch sử của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, đồng thời cũng cho chúng ta một khải thị rất lớn?

Ngày nay chúng ta muốn vãng sanh, chúng ta muốn làm đệ tử của Phật. Phật, trong đời quá khứ, việc hành trì của sự phát tâm này có thể nói đều là gương mẫu tốt nhất cho việc tu hành của chúng ta, là chúng ta phải nên ghi nhớ lấy, phải nên học tập.

Trong đoạn Kinh Văn này, cái quan trọng nhất của đoạn thiện nhất kỳ tâm, tư duy cứu cánh đó đích thật là sau khi hiểu rõ thông đạt cái nhất tâm này tức là chân nhân của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, vi diệu báo độ.

Do đây chúng ta cũng đã hiểu rõ, cái Chư Phật sát độ của Thập Phương Thế Giới này đây, nếu cùng với chỗ này so sánh thì sao?

Vừa đúng là một đối chiếu rất rõ ràng.

Vậy tức là gì?

Thập phương sát độ là tạp tâm biến hiện ra, mới có thập pháp giới, tạp tâm biến ra còn Tây Phương Cực Lạc Thế Giới là nhất tâm thành tựu.

Cho nên cái độ này là thanh tịnh, là vi diệu. Do Di Đà nhất tâm bất loạn mà thành tựu. Mỗi một người vãng sanh cũng phải niệm nhất tâm bất loạn mới có thể cảm ứng, mới được vãng sanh. Vậy giảng đến chỗ này có lẽ những bạn đồng tu có lẽ đã có nghi vấn rồi, cho là nhất tâm bất loạn khó quá.

Vậy giả như tôi chẳng được nhất tâm thì đời này tôi chẳng còn kỳ vọng gì sao?

Đây đích thực là một vấn đề nghiêm trọng, một vấn đề thật.

May thay, Đức A Di Đà đích thật là từ bi, chúng ta chẳng cần phải niệm đến nhất tâm cũng được vãng sanh, tuy nhiên nếu tâm tạp loạn thì quyết định chẳng được được vãng sanh, tối thiểu cũng phải niệm đến công phu thành một mảng, công phu thành một mảng là thế nào?

Đây là cái bờ mé của sự nhất tâm bất loạn, chưa đến, chỉ mới đạt đến một tí ti, chỉ mới có một tí hình bóng thì được vãng sanh điều này thì chúng ta có thể làm được, đây chẳng phải thật sự là nhất tâm chỉ là nhất tâm tương tợ, chỉ giống một tí.

Chúng ta công phu niệm Phật đắc lực có thể đem vọng tưởng phiền não đè xuống, người xưa có cái tỉ dụ nói đem đá đè cỏ cái gốc chưa nhổ hết đem đá đè lên thì cỏ chẳng khởi tác dụng nữa, có được trình độ này thì được vãng sanh điều này thì chúng ta mới được yên tâm.

Cho nên điều kiện vãng sanh của bổn Kinh nói đến chẳng có nói nhất tâm bất loạn. Trong phần Tam bối vãng sanh, Kinh Văn rất rõ ràng, rất minh bạch dạy cho chúng ta yếu lĩnh của sự niệm Phật, đó là nhất hướng chuyên niệm câu phía trước là phát bồ đề tâm, chỉ cần nhất hướng chuyên niệm thì là được, Kinh chẳng có nói nhất tâm bất loạn, nhất hướng chuyên niệm thì dễ làm hơn. Trong Kinh Di Đà nói đến nhất tâm bất loạn, cái tiêu chuẩn đó thì là cao.

Tuy nhiên, năm xưa Thế Tôn giảng Kinh Di Đà, trên phần nguyên bổn tiếng Phạn chẳng có nhất tâm bất loạn, câu nhất tâm bất loạn này là do người dịch dịch ra là do Ngài Cưu Ma La Thập Đại Sư dịch, Ngài dịch thành nhất tâm bất loạn khiến cho chúng ta cảm thấy khó khăn.

Còn bản dịch của Ngài Huyền Trang Đại Sư là trực dịch, hiện nay bản này cũng được lưu thông rồi. Trong phần đọc, bản của Tịnh Độ Ngũ Kinh, chúng tôi thu giữ trong đó, quý vị thử xem bản dịch của Huyền Trang Đại Sư thì quý vị sẽ hiểu rõ, trong Kinh không có nói nhất tâm bất loạn mà nói là nhất tâm hệ niệm, nhất tâm hệ niệm này cùng ý nghĩa nhất tâm chuyên niệm giống nhau, cái này thì chúng ta cảm thấy vẫn chẳng phải quá khó.

Vậy thì Đại Sư La Thập có dịch sai không?

Nếu như Đại Sư La Thập đã đem Kinh Dịch sai Đại Sư Huyền Trang so với Đại Sư La Thập sau hơn rất nhiều năm nhất định đã đem nó sửa đúng trở lại.

Đại Sư Huyền Trang chẳng có nói Đại Sư La Thập dịch chẳng đúng, vả lại học trò của Đại Sư Huyền Trang là Ngài Khuê Cơ là truyền nhân của Ngài Huyền Trang, là người học trò đắc ý nhất của Ngài có viết một bản chú giải cho Kinh Di Đà vẫn chọn bản của Ngài Đại Sư La Thập vẫn không dùng bản dịch của thầy mình, do đây có thể biết thầy trò họ đối với bản dịch của Đại Sư La Thập vô cùng bội phục. Vì Ngài dịch không sai.

Vậy thì nhất tấm bất loạn là sự việc ra làm sao?

Chỉ cần chúng ta ở chỗ này niệm đến công phu thành một mảng, lúc vãng sanh Phật đến tiếp dẫn, lúc Phật đến tiếp dẫn trước tiên là lấy ánh sáng chiếu rọi, ánh sáng của Phật chiếu vào chúng ta, Phật Quang vừa chiếu thì đem nghiệp chướng của chúng ta tiêu trừ hết, đem công phu của chúng ta nâng cao lên.

Cho nên chúng ta chỉ cần niệm đến công phu thành một mảng, lúc lâm chung vừa thấy được Đức A Di Đà thì địa vị lập tức được nâng cao lên, cao hơn gấp bội, đạt đến sự nhất tâm bất loạn.

Cho nên Ngài dịch nhất tâm bất loạn là không sai, dịch không sai. Giả như chúng ta tự mình thật sự dụng công, thật sự niệm đến nhất tâm bất loạn rồi thì lúc lâm chung khi Phật đến tiếp dẫn anh lại có thể đem công phu lại nâng lên.

Sự nhất tâm nâng lên đến lý nhất tâm, cho nên sự gia trì của Phật vừa đúng là gấp bội của sự tự mình tu trì của chúng ta, điều này nói rõ chúng ta tự mình dụng công là vô cùng quan trọng.

Tiện nhất kỳ tâm vô cùng, vô cùng quan trọng. Chúng ta ngày nay niệm Phật phải nhất tâm xưng niệm, cũng tức là phải chuyên tâm niệm Phật, tốt nhất đừng nên có tạp niệm, đừng nên xen tạp.

Mới học đương nhiên chẳng tránh khỏi xen tạp, đều phải đề cao cảnh giác, làm cho sự xen tạp này từng năm từng năm ít dần, từng tháng từng tháng ít dần. Đây tức là tiến bộ, đây tức là công phu đắc lực.

Nếu như chúng ta niệm Phật đã niệm được nhiều năm rồi mà hiện tượng tạp niệm vẫn y nhiên như cũ, chẳng có cải tiến, đó tức là công phu của chúng ta không đắc lực, vãng sanh như vậy thì là chẳng vững chắc, so ra thì khó khăn hơn.

Công phu đắc lực mình vãng sanh thì là vững chắc. Đây là sự thọ dụng chân thật. Từ chỗ này chúng ta thấy được Cực Lạc Thế Giới bí quyết là ở tại sự nhất tâm.

Tuyển trạch sở dục, kết đắc đại nguyện, đại nguyện, này tức là bốn mươi tám nguyện phía sau chỗ nói đến. Bốn mươi tám nguyện là Pháp Tạng Tỳ Kheo trong tất cả các Chư Phật sát độ tuyển chọn mà thành tựu.

Trong Chư Phật sát độ có những chỗ không thù thắng thì Ngài loại bỏ như tam ác đạo thì Ngài loại bỏ những thứ thù thắng, mặt tốt và thiện thì Ngài đều chọn lấy, bốn mươi tám nguyện của Ngài là vì như vậy mà có.

Tinh cần cầu sách, chữ tinh này là chọn lựa, một tí cũng chẳng cẩu thả qua loa, nhất định phải chọn lựa cái tốt nhất, thù thắng nhất. Cần, là cần phấn, thật lòng nỗ lực, không giải đãi, ở đó mà tìm cầu. Cung thận bảo trì, sau khi đã chọn lựa lại có thể đem nó bảo trì mà chẳng đánh mất.

Xin xem tiếp phía dưới: Tu tập công đức mãn túc ngũ kiếp. Phía trước chúng ta thấy được văn và tư ở đây thì là tu.

Tu được bao lâu mới có thể thành tựu Tây Phương Cực Lạc Thế Giới?

Tu hết năm kiếp, năm kiếp này là tinh cần cầu sách, cung thận bảo trì, chữ cung thận này tức là tâm chân thành, tâm cung kính khiến cho công đức của chính mình bảo trì mà chẳng mất.

Làm thế nào có thể bảo trì được công đức?

Trong Phật Pháp thường nói lửa thiêu rừng công đức, chúng ta tu công đức chẳng dễ, một đóm lửa thì thiêu sạch hết.

Là lửa gì vậy?

Lửa sân hận, vừa nổi cơn giận thì công đức ấy mất ngay, cho nên cái này khó đấy. Thử nghĩ chúng ta nhiều năm, nhiều kiếp niệm Phật, tụng Kinh, làm công đức vừa mới nổi cơn giận thì không còn nữa, hết cả.

Chờ đến sau cơn giận, tiêu mất, niệm trở lại tu tập trở lại, nếu như trước khi anh nghe giảng, mỗi một trận giận dữ thì hỏng hết công đức của anh đều chẳng còn nữa, đều này cần phải biết, cái đáng sợ nhất là sân giận, chúng ta những người học Phật, những người thật sự muốn tu công đức thì tánh cảnh giác đó rất cao, nhất định không nóng giận.

Bất luận là việc gì dẫn khởi khiến lòng chúng ta không vui, muốn nổi nóng anh phải cảnh giác đến, đó là gì?

Là ma chướng, ma thấy anh đã có được công đức chẳng ít thì khuyên anh đốt đi đốt đi, anh thật đã vâng lời. Liền đem công đức đốt mất.

Nếu như anh chẳng nổi nóng thì sao?

Công đức của anh vẫn còn, bất cứ ai cũng chẳng có cách chi có thể đem anh hóa trừ, ma cũng chẳng có biện pháp, ma cũng chỉ là bảo tự anh đem công đức của anh huỷ diệt, chúng chẳng có khả năng.

Cho nên anh có được tâm cảnh giác ta không làm, ta tuyệt đối chẳng nóng giận, tuyệt đối chẳng nghe theo chúng thì công đức này mới bảo trì được, công đức và phước đức khác nhau, phước đức có nổi nóng cũng không sao, phước báo ấy vẫn còn đó, nhưng công đức thì không thể được.

Công đức vừa nóng giận thì không còn nữa. Như vậy do đây có thể biết, nếu muốn có thể thật sự cung thận bảo trì thì nhất định tham sân si mạn, phiền não, tập khí tất cả thể đều đoạn dứt hết thì công đức của họ sẽ được bảo trì.

Trong Kinh Kim Cang dạy cho người sơ học như chúng ta nhất thiết pháp đắc thành ư nhẫn cho nên nhẫn nhục Ba la mật có thể đem công đức bảo trì được.

Anh xem. Bố thí, trì giới là tu công đức, nhẫn nhục là bảo trì công đức. Cho nên nếu không có nhẫn, nếu tu công đức thì đều có thể thiêu huỷ mất bất cứ lúc nào, đều mất hết.

Cho nên Lục Độ của Bồ Tát, mỗi cái khâu của nó đều móc với nhau chặt chẽ, bỉ thử có sự quan hệ mật thiết, đến lúc tinh tấn, thiền định thì công đức của anh đã thành tựu. Đây mới hiển thị ra cái trí tuệ vô lượng. Vậy ở chỗ này chúng ta thấy được họ tu đã năm kiếp. Thời gian dài như vậy.

Ư bỉ nhị thập nhất cu chi Phật độ, chữ cu chi là đơn vị con số thời cổ ở Ấn Độ, tương đương với Trung Quốc chúng ta là mười triệu, mười triệu gọi là một cu chi. Vậy hai mươi mốt cu chi tức là hai trăm mười ức Phật sát cho nên chỗ này dùng cu chi hiển thị, đây là cách biểu trưng của Mật Tông.

Cho nên trong bộ Kinh này của chúng ta có Giáo, có Thiền, có Mật, có Tịnh… vô lượng vô biên pháp môn đều cô đọng trong một bộ Kinh này. Cho nên bộ Kinh này chúng ta đọc tụng, tu học thì như là tất cả sở hữu các pháp môn anh đều tu hết cả, đích thực là ý nghĩa này.

Công đức trang nghiêm chi sự minh liễu minh đạt như nhất Phật sát, đây là nói về sự thành tựu của Ngài. Chúng ta đối với sự việc trong một Phật sát thì dễ hiểu rõ còn nơi vô lượng vô biên Phật Pháp thì là khó. Hiện nay thì Ngài tận hư không biến pháp giới chỗ có tất cả Phật sát thông đạt hiểu rõ cũng giống như bổn quốc quốc độ của chính mình, thông hiểu rõ ràng như vậy.

Sở nhiếp Phật Quốc, siêu quá ư bỉ nguyện vọng của Ngài thật viên mãn. Ngài xây dựng cái Thế Giới Cực Lạc đó đích thực siêu việt hơn sát độ của Chư Phật. Một đại thành tập hội tất cả công đức viên mãn của Chư Phật, việc này là nói về tu thành tựu. Sự thành tựu của việc tu hành của Ngài.

Thật tại mà nói cũng chẳng phải đơn giản, chúng ta phải đem sự thật chân tướng này thấu hiểu rõ ràng thì chúng ta đối với Tịnh Tông mới có thể sinh ra lòng tin kiên định, sẽ không hoài nghi.

Cực Lạc Thế Giới tuyệt đối chẳng phải là sự thành tựu ngẫu nhiên. Phật Tự Tại Vương giảng Kinh thuyết pháp cho Ngài hết ngàn ức năm, Ngài Pháp Tạng chính mình hết lòng tu học, tinh cần tuyển chọn, thời gian là năm kiếp mới đầy đủ, nào phải là chuyện dễ dàng.

Cho nên đây là tập hợp tất cả tướng của Phật sát trang nghiêm, thanh tịnh mà thành tựu. Lẽ tự nhiên là siêu việt hơn sát độ của Chư Phật, mãn được cái nguyện của Ngài.

Cho nên phần sau Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đối với A Di Đà Phật tán thán, nói Ngài là Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán Ngài như vậy, tất cả Chư Phật đều giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đều tán thán Ngài như vậy.

Cho nên đây chẳng phải là một việc dễ dàng. Vậy chúng ta thấy được đoạn lịch sử này, đoạn Kinh lịch này, chúng ta tự nhiên sẽ cảm thấy đây là vô cùng hợp tình lý, hợp tình hợp lý, hợp pháp, đáng được chúng ta tin theo, tin cái Tây Phương Thế Giới chẳng phải Ngài bỗng không tưởng tượng ra.

Xưa kia Ngài Thiên Thai Đại Sư tức Trí Giả Đại Sư nói cho chúng ta: Đạo lý của sự thông đạt cứu cánh viên mãn, đây là thiện.

Tuy nhiên, nếu là chấp tướng thì sao?

Thì là bất thiện.

Quý vị hãy thử nghĩ, thông đạt nguyên lý mà chấp tướng, còn chẳng gọi là thiện huống chi là những kẻ khác ư?

Từ chỗ này chúng ta có thể thể hội được cái tinh của sự lựa chọn của Ngài Pháp Tạng. Cho nên cái tiêu chuẩn thiện ác của Ngài chẳng phải là cái tiêu chuẩn của chúng ta vậy.

Trong Kinh Hoa Nghiêm Phật nói rất hay, Phật dạy tất cả chúng sanh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai nhưng vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng có chứng đắc. Cũng đã nói đến cái chấp trước.

Cho thấy rằng: Trước tướng, trước kiến, đó là đại bệnh. Cho nên Thế Tôn trong Kinh Kim Cang mới cật lực hoá trừ sự việc này. Kinh Kim Cang nửa phần trước là phá bốn tướng, nửa phần sau là phá bốn kiến. Kiến so với tướng vi tế hơn tướng thô, kiến tế. Kiến là cái niệm trong tâm.

Nếu Bồ Tát có: Tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì chẳng phải là Bồ Tát. Nữa phần sau thì nói càng vi tế hơn nếu Bồ Tát có ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến tức chẳng phải Bồ Tát, cho thấy rằng chấp trước là căn đại bệnh vậy.

Chúng ta trong tất cả pháp đại thừa tu học vì sao chẳng thể thành tựu?

Tức là chẳng có biện pháp đoạn chấp trước.

Vậy pháp môn này của chúng ta thì sao?

Có chấp trước, không sợ. Dạy anh chấp trì danh hiệu, anh học đừng chấp những thứ khác. Chấp trước những thứ khác, không được. Chấp trước danh hiệu này thì được vãng sanh, đây là chấp tướng.

Những thứ khác của đại thừa không được chấp tướng còn cái chấp tướng này của chúng ta thì được. Chấp tướng tức là gọi đới nghiệp vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, sau khi gặp A Di Đà Phật chúng ta lại phá chấp trước, lại mới ly tướng điều này thật đã mang đến cho chúng ta sự lợi không gì sánh bằng.

Khiến cho tất cả chúng sanh vãng sanh bất thối thành Phật, là người người đều có phần. Điều này thật tại là bất khả tư nghì. Chúng ta lại xem phần Kinh Văn phía dưới.

Ký nhiếp thọ dĩ, phục chỉ Thế Tự Tại Vương Như Lai sở chữ ký nhiếp thọ dĩ này tức là nói Ngài đã trải qua tu hành năm kiếp đã thành tựu rồi, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tạo thành rồi, xong việc rồi. Sau khi xong việc phải hướng về thầy để báo cáo. Đây là việc đại hỉ.

Lại đến Đạo tràng của Thế Gian Tự Tại Vương Phật, lúc đó Phật trụ thế giáo hóa chúng sanh đã bốn mươi hai kiếp, cho nên Ngài đã xây dựng xong Cực Lạc Thế Giới rồi, Phật vẫn còn trụ thế Phật vẫn chưa viên tịch lại đi báo cáo với Phật.

Khể thủ lễ túc đây là phần lễ tiết. Nhiễu Phật tam tác, nhiễu Phật cũng là tối lễ kính, tỏ ra trò đối với thầy quyến luyến chẳng rời, giống như trẻ con vây quanh người lớn vậy, là lấy ý nghĩa này, tỏ ra rất cung kính.

Hiệp chưởng nhi trụ, bạch ngôn Thế Tôn: Ngã dĩ thành tựu, trang nghiêm Phật độ, thanh tịnh chi hạnh. Đây là đem Tây Phương Cực Lạc Thế Giới làm cho thành tựu, điều này chẳng phụ công thầy chỉ dạy trong ngàn ức kiếp, chẳng phụ công mình tu trì năm kiếp đã thành công đây là công đức viên mãn.

Phật ngôn: Thiện tai. Kim chánh thị thời, nhữ ưng cụ thuyết, lịnh chúng hoan hỷ, diệc lịnh đại chúng, văn thị pháp dĩ, đắc đại thiện lợi. Năng ư Phật sát, tu tập nhiếp thọ, mãn túc vô lượng đại nguyện. Chỗ này chúng ta nên đặc biệt lưu ý sư tư chi đạo, anh xem.

Thầy và trò, thầy rất giống một vị thầy, còn học trò thì sao?

Cũng rất giống một học trò. Điều này cũng rất đáng cho chúng ta noi gương, chúng ta phải nên học tập, thầy vừa mới nghe qua xong, liền tán thán liền thiện tai tức là quá hay. Cách tán thán này bên trong hàm ý vô cùng thâm sâu. Thật tại là nói phàm phu, chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng cũng có cơ hội làm Phật. 

Anh bảo! Điều này chẳng phải quá hay hay sao?

Tây Phương Cực Lạc Thế Giới là giúp đỡ những chúng sanh này, giúp đỡ chúng sanh có nghiệp chướng sâu nặng trong một đời có thể thành Phật.

Cho nên thầy của Ngài vui mừng tán thán Ngài: Hôm nay thật là đúng lúc, ông nên nói hết, ông hãy đem việc thù thắng trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới của ông, hãy nói với mọi người.

 Đây là nói cái này, nhóm đồ chúng của đức Tự Tại Vương Phật, số học sinh này cũng tức là bạn học của Pháp Tạng Tỳ Kheo, hướng về họ đề ra báo cáo, khiến cho chúng hoan hỷ, khiến cho tất cả chúng sanh ai ai nghe qua đều sanh tâm hoan hỷ, hiện nay có được một Đạo tràng thù thắng như vậy đến chỗ đó để tu học chẳng có một ai chẳng thành tựu, cũng khiến cho đại chúng.

Đại chúng nói ở chỗ này tức là học trò của Thế Gian Tự Tại Vương cùng với trước khiến chúng hoan hỷ không giống nhau, chữ chúng đó có thể nói là tất cả chúng sanh của thập phương thế giới, còn đại chúng ở đây là nói nhóm người trong đại hội này là học trò của Thế Gian Tự Tại Vương cũng tức là bạn học của Pháp Tạng Tỳ Kheo, khiến chúng sau khi nghe pháp được đại thiện lợi.

Đại thiện lợi này là chỉ cho cái gì?

Là chỉ cho dục linh thập phương cửu pháp giới chúng sanh đồng nhập Di Đà, nhất thừa nguyện hải, tất cả hàm linh đều nhờ vậy mà được độ, chữ độ này là nói thành Phật, đặc biệt là chỉ cho lục đạo chúng sanh, vì pháp môn này là người được viên mãn thành Phật đây gọi là đại thiện lợi, đây là tuệ dư tức là ban cho lợi ích chân thật cho chúng sanh. Chỗ này chúng ta phải đặc biệt lưu ý, phải hết lòng để học tập.

Ngày nay sự thành tựu của Pháp Tạng Tỳ Kheo, đã vượt hơn thầy, mười phương vô lượng vô biên Thế Giới chẳng có một người nào chẳng biết A Di Đà Phật, còn những người biết đến Thế Gian Tự Tại Vương?

Nếu chúng ta chẳng học bộ Kinh này thì anh làm sao biết được?

Anh chẳng biết được. Độ nổi tiếng của học trò so với Ngài còn cao hơn, sự thành công của học trò còn cao hơn Ngài. Thầy chẳng có đố kỵ.

Nhưng thế gian của chúng ta thì không thể được, tuy nói rất hay, có câu thanh xuất ư lam nhi thắng ư lam nhưng thầy thật tình chẳng cảm thấy, chẳng phải là mùi vị. Chẳng giống như vị thầy Thế Gian Tự Tại Vương này, vui sướng cùng cực như vậy. Đối với cậu học trò này thật sự tán thán, thật sự vui mừng.

Trong thế gian chúng ta, thầy đố kỵ học trò…

Triều Nhà Hán có một thí dụ rất nổi tiếng, ông Mã Dung, Mã Dung là một Nhà Nho lớn của Hán Triều, học trò của ông ta là Trịnh Huyền tức Trịnh Khương Thành, Trịnh Khương Thành bái ông ta làm thầy theo ông ta học được ba năm, đem tất cả của ông ta đều học hết, lại còn vượt hơn ông ấy, trong lòng ông ta không phục bèn muốn chỉnh cậu học trò này, ông dùng phương pháp gì vậy?

Ông mua một tay sát thủ, vì Trịnh Khương Thành phải về nhà. Ông mai phục trên đường muốn giết chết hắn ta, cũng tức là không muốn trò tương lai trội hơn mình.

Trịnh Khương Thành quá thông minh, hắn sớm đã dự liệu rồi, hắn rất lợi hại, thủ đoạn của vị thầy cũng cao minh, Trịnh Khương Thành về nhà rồi, vị thầy dẫn chúng bạn học khác đến mười dặm trường đình để tiễn hắn ta, thầy dẫn đám học trò đến để tiễn đưa, tiễn đưa như thế nào?

Mọi người kính rượu cho hắn, dụng ý phục rượu cho hắn say nhưng Trịnh Khương Thành tửu lượng rất lớn, mỗi người kính ba ly rượu hắn đã uống hết ba trăm ly.

Thời xưa chúng ta có câu truyện cổ, cổ điển ba trăm ly là từ đây mà có, câu truyện của Trịnh Khương Thành quả là sự thật. Hắn đã uống hết ba trăm ly, không những chẳng say mà những lễ tiết nhỏ nhặt đều chẳng mất, hắn ta biết rõ, hắn đi đến nữa đường thì chuyển sang đường khác, từ tiểu lộ mà chuồn mất.

Vị thầy chẳng khoan dung học trò. Thí dụ này từ xưa đến nay thì rất nhiều. Chỗ chúng ta thấy vị thầy Thế Gian Tự Tại Vương Phật này là bội phục ngay.

Ông ta đối với thành tích của học trò tán thán, hoan hỷ mà lại còn bảo tất cả học trò của mình phải theo hắn để học, điều này rất hiếm có.

Còn trong Phật Môn chúng ta, chúng ta xưa kia thấy được, vào đời Nhà Đường, Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư Ngài ở trong đội thợ săn trốn hết mười lăm năm.

Sau khi trở ra tại Quảng Châu, Quảng Châu hiện nay Ngài gặp được Ngài Ấn Tông, Ấn Tông thiệt là phi thường.

Ấn Tông năm đó là thủ lãnh Phật Giáo phương Nam, đồ chúng rất là đông. Ấn Tông biết được Ngài là Lục Tổ đắc pháp ở Hoàng Mai bèn thuyết pháp cho Ngài cho nên Ấn Tông là Vị Thế Độ Sư của Huệ Năng Đại Sư, xuất gia là do Ngài Ấn Tông thế độ sau khi Ấn Tông thế độ cho Ngài thì là đồ đệ của Ấn Tông.

Xong, đồ đệ đã khai ngộ, đã minh tâm kiến tánh, đã đắc đạo rồi mà chính mình vẫn chưa xong, quay đầu trở lại để bái Lục Tổ làm thầy, đây chẳng phải là người bình thường có thể làm nổi, quay đầu trở lại bái đồ đệ làm thầy đây đều là người phi thường.

Chẳng phải người thông thường có thể làm được, thân phận giá trị của Lục Tổ tức khắc trở nên cao. Tất cả những đồ chúng của Ấn Tông hết thảy đều quy y Lục Tổ.

Anh xem. Tâm lượng của Ngài Ấn Tông nào phải là người phàm, người phàm làm sao có thể được tâm lượng này?

Đem Đạo tràng nhường cho anh, đồ chúng tất cả nhường cho anh còn phần mình đi làm học trò, đi làm học trò, điều này thật tại mà nói đều là Phật Bồ Tát đến thị hiện, phàm phu không thể nào có cái tâm lượng lớn như vậy.

Cho nên những chỗ này chúng ta phải chú ý, chúng ta phải học tập, trong tâm thật sự có thể tín ngưỡng đạo đức, tôn trọng hiền năng, phải có thể khiêm nhường cầu học thì có thể thành tựu đạo nghiệp của mình. Cho nên chúng ta đọc đến phần Kinh Văn này cảm xúc sẽ rất nhiều.

Năng ư Phật sát, Phật sát này tức là Cực Lạc Tịnh Độ, tu tập nhiếp thọ, tu tập đây là chỉ cho tất cả những người niệm Phật vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Cái Đạo tràng này. Để tu học.

Còn nhiếp thọ đây là chỉ Pháp Tạng Tỳ Kheo là A Di Đà Phật hiện nay, A Di Đà Phật từ bi nhiếp thọ những đại chúng này mãn túc vô lượng đại nguyện, vậy thì điều này chứng minh tất cả Như Lai đều hoan hỷ gia trì cho Pháp Tạng, Thế Gian Tự Tại Vương cũng vậy. 

Một vị Phật đối đãi Pháp Tạng Bồ Tát như vậy thì chúng ta có thể liên tưởng đến tất cả Chư Phật nhất định cùng Thế Gian Tự Tại Vương Phật như nhau, đều xưng tán Pháp Tạng, gia trì cho Pháp Tạng, đều phải hộ trì Ngài.

Cho nên A Di Đà Phật biến thành trung tâm của các Chư Phật Như Lai, giống như những vì sao bao quanh Mặt Trăng, mọi người đều đến để ủng hộ Ngài, đều đến để thành tựu cho Ngài, thành tựu cho Ngài chính là thành tựu chính mình, tự tha không hai.

Xin lại xem phần phía dưới phẩm Kinh Văn này, phẩm Kinh Văn ở phía dưới là trung tâm của toàn Kinh, tinh hoa của toàn Kinh, là A Di Đà Phật tự nói ra, đây là Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta chuyển nói trở lại, diễn thuật lại thì đồng như Phật Tự Tại tự nói chẳng khác.
 

PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
 

Đây tức là bốn mươi tám nguyện trứ danh. Nguyện văn, điều mục, nhiều, ít, Ngũ Kinh khác nhau, tức là năm thứ dịch bản nguyên thuỷ khác nhau. Có những bản dịch trong đó là hai mươi bốn nguyện, có hai loại dịch bản là hai mươi bốn nguyện, có hai loại dịch bản là bốn mươi tám nguyện.

Còn có một dịch bản là ba mươi sáu nguyện, điều mục này nhiều ít khác nhau nhưng bên trong nội dung đại thể không có sai biệt là bao nhiêu, nội dung đại để là tương đồng, cũng tức là có lúc là hai nguyện, ba nguyện hợp thành một nguyện, có cái thì một nguyện chuyển ra thành hai, ba nguyện.

Cho nên điều mục của nó khác nhau. Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập phẩm Kinh này đã tốn nhiều khổ tâm, chúng ta nơi trong Phần Tựa của ông Mai Quang Hy thấy được.

Đoạn Kinh Văn này là lão cư sĩ Hạ Liên Cư và Mai Quang Hy còn có Sư Phụ của họ tổng cộng là ba người, đã dùng thời gian là ba tháng để hội tập đoạn này, do đây có thể biết, đoạn Kinh Văn này họ rất đặc biệt coi trọng.

Bởi vì đây là Tịnh Tông, có thể nói là cái y cứ nguyên thuỷ, quyết định không thế khinh xuất xem thường, hội tập đoạn này đại phần là hai mươi bốn. Là lấy hai mươi bốn làm cương, lấy bốn mươi tám làm mục.

Mỗi một nguyện. Phía sau chú đó là bốn mươi tám. Đây tức là hai mươi bốn cùng bốn mươi tám tất cả đều bảo trì lấy, làm cho bản lai diện mục của năm bản dịch nguyên thuỷ này, ở chỗ này tất cả đều có thể hiện thị ra đây là hội tập hay, đích thực là rất dụng tâm.

Pháp Tạng bạch ngôn: Duy nguyện Thế Tôn, đại từ thính sát trên thực tế, lúc này Ngài Pháp Tạng đã thành Phật rồi, tức là A Di Đà Phật đứng trước mặt thầy vẫn là thân phận đệ tử, Ngài nói: Bạch Phật ngôn duy nguyện Thế Tôn đây là lối kính xưng đối với thầy đại từ thính sát, chữ sát này tức là quán sát, nếu như có chỗ nào sai thì phải thỉnh thầy chỉ giáo sửa lại, có mang ý nghĩa này.

Phía dưới, đây là đoạn thứ nhất chúng ta tính đoạn, là hai mươi bốn đoạn, hai mươi bốn nguyện, phía dưới tiểu mục này là bốn mươi tám nguyện.

Ngã nhược chứng đắc, vô thượng bồ đề, thành chánh giác dĩ. Sở cư Phật sát, cụ túc vô lượng, bất khả tư nghì, công đức trang nghiêm. 

Đến chỗ này là một đoạn, đoạn này là tổng thuyết, nội dung là bao quát bốn mươi tám nguyện của toàn bộ, đây là tổng thuyết. Ngã nhược chứng đắc, vô thượng bồ đề, vô thượng, chánh đẳng, chánh giác cũng tức là Ngài đã viên mãn thành Phật rồi. Thành chánh giác dĩ, Ngài đã viên mãn thành Phật rồi.

Sở cư Phật sát, nơi sát độ của Ngài cư trú tức là Cực Lạc Thế Giới, nơi sát độ này nguyện vọng của Ngài là nhất định phải cụ túc vô lượng, bất khả tư nghì. 

Công đức trang nghiêm vậy đây là ở phía trước Ngài ở trước mặt thầy tỏ rõ nguyện vọng của Ngài nhất định phải thắng hơn Chư Phật quốc độ, bởi vì tất cả Chư Phật quốc độ đều có khiếm khuyết, còn chỗ này của Ngài chẳng có khiếm khuyết. Đây thì thắng hơn Chư Phật quốc độ rồi.

Còn công đức trang nghiêm đương nhiên quá nhiều quá nhiều.

Loại công đức nào gọi là đệ nhất trang nghiêm?

Đó tức là mười niệm tất sanh bất thối thành Phật. Cái này đích thực là đệ nhất công đức trang nghiêm. Bởi vì trong tất cả Chư Phật sát độ chẳng có, mà Ngài thì có. Cho nên là bất khả tư nghì công đức trang nghiêm là đặc biệt chỉ cho một sự việc này.

Điều này tức là trong bốn mươi tám nguyện là nguyện thứ mười tám, chúng ta lại xem tiếp phía dưới đây là trong bốn mươi tám nguyện.

Hai nguyện phía trước:

Nguyện thứ nhất là: Quốc vô ác đạo. Tất cả Chư Phật sát độ đều có ác đạo, còn ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng có tam ác đạo, vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi, nhuyễn động chi loại, đây là nguyện thứ nhất trong bốn mươi tám nguyện.

Nguyện thứ nhất: Chẳng có tam ác đạo. Thông thường mà nói, ác nghiệp chưa liễu tận thì thiện nghiệp đã thành thục có thể sanh vào tam thiện đạo. Như trạng huấn của chúng ta hiện nay đều là như vậy, nhưng phước hưởng hết rồi vẫn phải đoạ lạc, cho nên tam thiện đạo chẳng cứu cánh, vẫn còn một việc chúng ta cần phải cảnh giác đến.

Rất nhiều người bởi vì hưởng phước mà tạo ác nghiệp, cái đó thì đoạ lại càng nhanh, đọa càng thê thảm, những thứ này đều là chân tướng sự thật, không thể không đề cao cảnh giác. Người thế gian ai lại chẳng hưởng phước báo, nào có biết trong phước chôn giấu cái họa hại vô lượng.

Những người chẳng có phước báo, những người rất nghèo khổ cố nhiên là rất phiền não, anh muốn tạo ác nghiệp cũng tạo chẳng thành, nói một cách khác một đời này anh chỉ là đang thọ báo, anh rất chẳng dễ dàng tạo tội nghiệp trọng đại, vậy nói một cách, khác kiếp sau anh sẽ không đoạ lạc.

Người hưởng phước thì khác hẳn, chúng ta chẳng cần nói việc khác, những người nghèo khổ hiện nay tiêu chuẩn cuộc sống được nâng cao cùng khắp, như cỡ lứa tuổi của tôi đây lúc còn bé sống ở thôn quê, ăn toàn là rau cải, ăn thịt rất ít, đại khái đều là mồng một, ngày rằm mới mua được thịt. Vào ngày lễ và tết mới có được một bữa ăn đàng hoàng, ngày thường chẳng có ăn.

Nói một cách khác, sát sanh tạo nghiệp thì rất ít, rất ít. Chẳng có cơ hội. Còn người giàu có, mỗi ngày đều gà vịt, cá thịt, món nghiệp nợ này thì phải trả đấy, trả không hết.

Chúng ta nhìn thấy họ rất hâm mộ nhưng đến sau này khi tính sổ nợ, khi quả báo hiện tiền mới biết được, ôi chao. Họ chẳng bằng chúng ta, sánh với chúng ta kém quá xa. Nhân quả thông ba đời, những chân tướng sự thật này chúng ta không thể không biết.

Địa ngục là do cái ác báo, do tạo tác thượng phẩm thập ác chổ cảm được, ngạ qủy là trung phẩm thập ác, súc sanh là hạ phẩm thập ác.

Có những Kinh Phật nói với chúng ta tham sân si chổ chiêu cảm được là: Sân giận đoạ địa ngục, bỏn xẻn tham lam là ngạ quỷ, ngu si là súc sanh. Tham sân si tam độc phiền não cảm được là tam đồ khổ báo. Tây Phương Thế Giới chẳng có tam ác đạo.

Nói một cách khác, chẳng có người tạo ác nghiệp, chẳng có phiền não của tham sân si, chẳng có nhân nên họ chẳng có quả báo, mỗi một người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, công phu niệm Phật đắc lực rồi có thể đem tham sân si đè xuống, tuy chẳng đoạn được nhưng có khả năng đè xuống.

Tôi tự mình có khả năng đè được khi đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Phật lực vừa gia trì thì họ đoạn dứt ngay, cho nên liền được nhất tâm là sự việc như vậy. Ưu tiên này chiếm được rất lớn.

Học các pháp môn khác, việc đoạn phiền não phải hoàn toàn nhờ vào chính mình nay thì chúng ta chỉ cần đè một nữa, còn nữa kia Phật giúp đỡ thì chúng ta sẽ thành công, cho nên pháp môn này gọi là nhị lực pháp môn, ưu tiên này chiếm được rất nhiều, rất nhiều. Vậy xem tiếp một đoạn phần dưới.

Sở hữu nhất thiết chúng sanh, dĩ cập diêm ma la giới, tam ác đạo trung, lai sanh ngã sát. Thọ ngã pháp hoá, tất thành A nậu đa la tam tam miệu tam bồ đề, bất phục canh đoạ ác thú đây là nguyện thứ hai của bốn mươi tám nguyện.

Nguyện thứ hai: Bất đoạ ác đạo nguyện. Sở hữu tất cả chúng sanh, đây là chỉ cho trong lục đạo cùng với Diêm Ma La giới Diêm Ma La đây tức là Vua Diêm La chúng ta gọi đây là Thập Điện Diêm Vương, vị Ngũ Điện Diêm Vương của Đệ Ngũ Điện rất là lợi hại.

Diêm La Vương, Diêm La Vương Đệ Ngũ Điện cũng gọi là Bình Đẳng Vương. Trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có giới thiệu, có nói rõ, Ngài là quản lý địa ngục Ngài là trông coi địa ngục Diêm La Vương là trông coi địa ngục.

Trong tam ác đạo, đặc biệt là chỉ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ác đạo chúng sanh ác nghiệp tập khí nặng nhất. Nếu họ có thể niệm Phật, nghe đến pháp môn này một lòng xưng niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ cũng được vãng sanh.

Cho nên pháp môn này chỉ cần đủ ba điều kiện: Anh thật tin tin có A Di Đà Phật, tin có Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Thế Giới, tin niệm Phật nhất định có thể được A Di Đà Phật đến tiếp dẫn vãng sanh, anh thật tin chẳng hoài nghi. Thật sự muốn đi, đây là nguyện thật sự muốn đi, thật sự muốn đi tức là chỗ này, tất cả phải buông xuống.

Một mặt muốn đi đến đó mặt khác lại chẳng buông được, đó là giả, chẳng phải thật muốn, thật muốn thì nhất định tất cả đều buông xuống, thâm tâm thế giới tất cả buông xuống, trong tâm chẳng còn ái ngại nữa, đây mới gọi là thật muốn đi, tất cả đã buông xuống hết. Thì quyết định được sanh, A Di Đà Phật nhất định sẽ tiếp dẫn anh.

Chúng ta ở đây vừa phát tâm thì Ngài biết ngay. A Di Đà Phật hiểu ngay. Cái duyên của chúng ta bên đây thành thục rồi thì Ngài đến tiếp dẫn, khi thọ mạng chúng ta đến thì Phật đến tiếp dẫn, đến bên đó tiếp nhận sự giáo hóa của A Di Đà Phật thọ ngã pháp hoá, pháp là phương pháp giáo học, đem ác nghiệp tập khí của chúng ta đều hóa trừ hết, hoá thành công đức vô lượng.

Tất thành A nậu đa la tam niệu tam bồ đề, đây tức là thành Phật rồi, đến được Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tiếp thọ sự giáo hoá của A Di Đà Phật, nhất định là thành Phật, thành cứu cánh viên mãn Phật. Trong quá trình tu học này quyết định sẽ chẳng đoạ ác đạo nữa.

Bởi vì trong đời quá khứ có những ác tập khí này, giả như nếu chẳng ở tại Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì tu hành có tiến, có thối, việc thối chuyển này rất có thể thối đến tam ác đạo, đi mất.

Những thí dụ này thì là quá nhiều quá nhiều. Đây là nói thập phương thế giới tu hành có khiếm khuyết, tức là nó có thối đọa, còn Tây Phương thế giới chẳng có thối chuyển, không thối chuyển, tuyệt đối sẽ không rơi vào tam ác đạo nữa, chúng ta đã làm tội nghiệp cực nặng, sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, hãy yên tâm. Một nguyện này của A Di Đà Phật là bảo chứng, bảo đảm sẽ chẳng rơi vào ác đạo nữa.

Đắc thị nguyện, nãi tác Phật, bất đắc thị nguyện, bất thủ vô thượng chánh giác, nguyện này của tôi phải mãn, thực hiện rồi thì tôi thành Phật, giả như cái nguyện này của tôi phát đó chẳng thể thực hiện, chẳng thể viên mãn thì tôi thề chẳng thành Phật.

Vậy hiện nay Phật A Di Đà ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thành Phật đã mười kiếp rồi, nguyện của Ngài toàn bộ đã thực hiện. Toàn bộ đã thực hiện rồi. Mỗi một câu, mỗi một chữ đều là chân thật bất hư.

Vậy do đây có thể thấy, bổn nguyện của A Di Đà Phật, bổn tâm của A Di Đà Phật thật sự là niệm niệm hy vọng tất cả chúng sanh mau mau thành Phật, đây là nguyện vọng của Ngài, một nguyện này của Ngài vượt qua Chư Phật, vả lại Ngài thật sự đã làm được.

Nguyện vọng này thật sự đã được thực hiện. Vấn đề là chúng sanh có tin hay không, có chịu phát nguyện cầu sanh hay không. Chẳng phải Phật A Di Đà chẳng có khả năng.

Vấn đề là ở chính chúng ta có chịu hay không?

Không chịu thì sao?

Đó chính là chính chúng ta có chướng ngại, không chịu tức là chướng ngại vậy.

Nếu như anh hỏi chướng ngại gì đây?

Anh chẳng mong muốn, đây là chướng ngại. Khi ưng chịu thì chướng ngại không còn nữa. Ai chịu niệm Phật thì người đó được vãng sanh.

Pháp môn này là pháp môn bình đẳng mà, bất luận anh là tu học đại thừa, tiểu thừa, bất luận anh là tạo ác, tạo thiện chẳng có quan hệ, chỉ cần anh hồi tâm chuyển ý, thật sự chịu niệm Phật cầu nguyện vãng sanh thì người người đều được sanh, đây là thật sự bất khả tư nghì. Công đức đệ nhất hy hữu, chúng ta lại xem đoạn thứ hai.

Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới, sở hữu chúng sanh, lịnh sanh ngã sát. Giai cựu tử ma, chân kim sắc thân. Chúng ta nơi một đoạn này, trong đoạn này có ba nguyện, chúng ta vẫn phải từng nguyện một mà xem, như vậy so ra sẽ rõ ràng hơn.

Đây là nguyện thứ nhất là kim sắc thân nguyện. Chúng ta ở chỗ này phải đặc biệt lưu ý. Nó nói về mười phương thế giới tất cả chúng sanh.

Trong này chẳng có lựa chọn, mười phương thế giới tất cả chúng sanh đương nhiên bao gồm chúng ta trong đó, chẳng có nói Ta Bà Thế Giới chúng sanh trên trái đất này là ngoại lệ, chẳng có cách nói như vậy, đã là chẳng có cách nói như vậy thì là gồm cả trong đó.

Phật Tỳ Lô Giá Na Thế Giới, Hoa Tạng cũng ở trong đó, bởi vì Ngài chẳng có nói Phật Tỳ Lô Giá Na Thế Giới, Hoa Tạng là ở ngoài, Ngài chẳng có cách nói này. Vậy có thể nói được tất cả Chư Phật sát độ đều bao gồm trong đó. Cho nên Ngài Văn Thù, Phổ Hiền cũng được vãng sanh.

Cho nên những chữ này chúng ta phải xem cho rõ ràng, mới biết được nguyện của Ngài quả thật là vĩ đại, sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thân tướng chỗ có được là bình đẳng, đều đầy đủ, người người đều là tử ma chân kim sắc thân, chữ ma này ý nghĩa của thời xưa là chỉ cho vàng rồng, chẳng có một tơ hào cặn bả, nó là tinh kim.

Đây là nói về sắc thân, đây là cái thân thể của chúng ta khi đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, hãy nhìn xem. 

Cái thân thể hiện nay của chúng ta, thân thể này vô cùng yếu mềm, nhục thân rất yếu mềm, vừa gặp phải một cơn gió lạnh tí ti thì ngã bệnh rồi, chẳng đứng lên nỗi, còn người ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới ai ai cũng đều là kim thân, thể chất của họ là thuần kim, thuần kim thân. Tam nhập nhị chủng, đại trượng phu tướng.

Đây là Thích Ca Mâu Ni Phật nói đến thế giới này của chúng ta, bởi vì thế giới này của chúng ta, con người tâm lượng rất nhỏ hẹp, nói ba mươi hai tướng, tám mươi thứ đẹp, tướng hảo đó thì là đến chỗ cứu cánh viên mãn rồi, còn nhiều hơn thế nữa?

Nhiều hơn nữa thì vô phương tưởng tượng.

Kỳ thật là không chỉ bấy nhiêu đó, kỳ thật chúng ta trong Đại Kinh thấy được: Thân Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng hảo. Chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tướng mạo của chúng ta cùng với Phật A Di Đà là một khuôn một mẫu vậy.

Đoan chánh tịnh khiết, tất đồng nhất loại. Câu này phải ghi chặt vào lòng, người của Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng có hai tướng mạo. Anh thử xem hiện nay Đạo tràng chúng ta mọi người ngồi chung một nơi, mỗi người một tướng mạo đều khác nhau, còn Tây Phương Cực Lạc Thế Giới dù người nhiều hơn đi nữa cũng chỉ có một tướng mạo, tuyệt đối chẳng có hai tướng.

Việc này thật là phiền phức. Tướng mạo đều như nhau.

Vậy nếu chúng ta đang nhận diện người chẳng phải nhận lầm hay sao?

Mọi người đều cùng Phật như nhau, ai là A Di Đà Phật?

Ai là Quán Thế Âm Bồ Tát đây?

Chúng ta đi vãng sanh chẳng phải đều chẳng phân biệt rõ ràng rồi sao?

Việc này anh hãy an tâm, sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chúng ta đều có tha tâm thông, mỗi người quá khứ, hiện tại, vị lai tất cả thảy đều rõ ràng, thảy đều hiểu rõ, quyết định chẳng nhận lầm người. Điều này bên trong hàm ý vô cùng sâu dày.

Phía trước chẳng phải đã nói rồi sao?

Bốn mươi tám nguyện của Ngài là từ đâu đến?

Là vì thấy được rất nhiều Chư Phật sát độ, ở trong đó tinh tâm lựa chọn mà có. Người của mười phương Thế Giới có tướng mạo khác nhau, tướng mạo đẹp thì kêu ngạo, còn tướng mạo xấu không đẹp thì có tự ti mặc cảm, đây thì là phiền não, còn Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mọi người đều có tướng mạo giống nhau thì không có kêu ngạo cũng chẳng có tự ti. Anh xem Phật A Di Đà này thật là thông minh.

Ngài dùng những phương pháp này, đem tất cả phiền não của anh tự nhiên tiêu trừ sạch hết, đến nơi đó tất cả đều chẳng còn nữa, phương pháp tuyệt diệu vậy.

Hiển thị thế giới này của ngài là pháp giới bình đẳng. Cho nên trên đề Kinh này lấy phương pháp bình đẳng để độ tất cả chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật, đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới là bình đẳng, cùng với A Di Đà Phật không hai không khác.

Mười phương thế giới chúng sanh hình sắc bất nhất, đoan chính trang nghiêm, có người có thể khiến người sanh tâm hoan hỷ, sanh tâm cung kính. Cho nên người của Tây Phương Thế Giới tướng mạo đoan chánh trang nghiêm là trong tất cả Chư Phật sát độ chẳng sánh kịp.

Vì thế nên học trò của A Di Đà Phật bất luận đi đến thế giới nào đây là việc rất bình thường, hàng ngày đều đi đến mười phương thế giới cúng dường Chư Phật, đi độ hoá chúng sanh được sự tôn kính của đại chúng ở tất cả Chư Phật sát độ, đệ tử của Di Đà, người ta phải dùng mắt kính trọng để nhìn, điều này tôi từng nói qua với quý vị.

Ở thế gian chúng ta có nhiều người vô cùng ngưỡng mộ Di Lặc Bồ Tát, ưa thích tương lai sinh đến Tịnh Độ của Di Lặc Bồ Tát, Đâu Suất Nội Viện.

Tương lai Di Lặc Bồ Tát hạ sanh thành Phật, từng người một theo Ngài xuống đây giống như đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên… theo Phật được xuống thị hiện độ hoá chúng sanh họ có cái nguyện này, nguyện này tốt không?

Thưa tốt, vô cùng đáng được tán thán.

Tuy nhiên, tôi rất hiểu rõ, muốn vãng sanh đến Đâu Suất Nội Viện chẳng phải một việc dễ dàng, tại vì sao?

Tiêu chuẩn chọn lấy học sinh của Di Lặc Bồ Tát rất cao. Tôi nghĩ lại nếu tôi muốn vào cái viện ấy của Ngài điểm của tôi không đủ, chẳng có cách chi, không đi được. Lại thử xem Tịnh Độ của A Di Đà Phật, Ngài chọn lấy học sinh điểm rất thấp, vô cùng vô cùng thấp. Tôi nắm chắc có thể đi được.

Nếu tôi đi đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới rồi, muốn trở về lại Thế Giới Ta Bà, trong Kinh này nói: Mười vạn ức Phật quốc độ, trong một sát na là về đến, đi thân cận với Di Lặc Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát vừa trông thấy học trò của A Di Đà Phật vẫn đặc biệt hoan nghênh lấy mắt khác biệt mà nhìn, so với học trò của Ngài còn tốt hơn rất nhiều.

Như những bài toán này ta phải biết tính, phải biết toán, cho nên chúng ta cũng có thể đến được nội viện của Đâu Suất cũng có thể thân cận Di Lặc Bồ Tát so với học trò của Ngài còn được đặc biệt chiêu đãi hơn, chúng ta nghe Di Lặc Bồ Tát giảng Kinh, nhất định được ngồi ghế Thượng Tọa. Những hàng ghế phía trước đều nhường cho chúng ta ngồi, còn học trò của Ngài thì ngồi phía sau.

Cho nên đây là sự thật không thể không biết, đây là một con đường dễ dàng nhất để thân cận Di Lặc Bồ Tát. Xin xem tiếp đoạn thứ ba.

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả. Tự tri vô lượng, kiếp thời túc mạng, sở tác thiện ác. Giai năng động thị, triệt thính, tri thập phương khứ lai, hiện tại chi sự. Bất đắc thị nguyện, bất thủ chánh giác. Trong đoạn này lại bao quát luôn ba nguyện, túc mạng, thiên nhãn, thiên nhĩ.

Quý vị nên biết, đây tức là người thế tục chúng ta gọi là thần thông, thông là thông đạt vô ngại, thần là thần kỳ mạt cách. Cái năng lực đặc biệt này hiện nay ở Đại Lục gọi là Kỳ Dị Công Năng, Đặc Dị Công Năng cách gọi này rất có đạo lý. Năng lực này của họ siêu việt người thường.

Vậy thì thần thông từ đâu mà có?

Là do báo mà được, do tu mà được. Như chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, sanh đến bên đó thì có đây gọi là báo đức, đây chẳng phải là tu đức, cái báo đức này là bổn nguyện gia trì của A Di Đà Phật.

Bởi vì sanh đến bên ấy nếu chẳng có năng lực này thì A Di Đà Phật đã không thành Phật rồi, vừa sanh đến bên ấy thì năng lực này tất cả đều có A Di Đà Phật mới thành Phật.

Năng lực, thần thông đó lớn cỡ nào?

Vượt hơn A La Hán. Túc mạng và tha tâm của A La Hán năng lực này chỉ biết được có năm trăm đời, năm trăm đời về trước thì họ chẳng biết và năm trăm đời về sau họ cũng chẳng hiểu được, họ có phạm vi, chẳng lớn lắm.

Vậy còn như thiên nhãn của Bồ Tát?

Tuỳ vào địa vị của Bồ Tát, Bồ Tát địa vị càng cao năng lực của thiên nhãn càng rộng, có thể nhìn thấy một cái đại thiên thế giới còn một trăm cái đại thiên thế giới, một ngàn cái đại thiên thế giới… chỉ có thiên nhãn của Như Lai mới có thể tận hư không biến pháp giới sở hữu tất cả Chư Phật sát độ, chẳng nơi nào chẳng thấy.

Vậy thì những người đi đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới năng lực này của họ năng lực thần thông này anh thử xem trong Kinh Văn này nói là: Cùng với A Di Đà Phật như nhau, cái ưu tiên này đã chiếm khá lớn, trong khi tu các pháp môn khác phải tu đến Bát địa Bồ Tát Bát địa Bồ Tát cùng với năng lực của Phật rất là kề cận phải tu ba đại A tăng tỳ kiếp.

Chúng ta chỉ mới niệm Phật vài năm, khi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì năng lực cùng với Bát địa, Cửu địa, Thập địa Bồ Tát như nhau. Cho nên những vị Bồ Tát đó nhìn thấy chúng ta, thực tế nhìn thấy thì lắc đầu chẳng tin được, nhưng cũng là sự thật.

Cho nên hiểu rõ rồi, không thể không bội phục reo lên: Ôi chao! Quý vị thật quá may mắn. Thật quá phi thường.

Chỉ tu vài ngày thì được rồi, còn tôi đã tu ba đại A tăng tỳ kiếp, tu đến khổ như thế đó mới có được, sao anh chỉ trong chốc lát mà có được vả lại những thứ được đó lại càng thù thắng hơn tôi?

Còn vượt hơn tôi?

Sao có thể chẳng bội phục chứ. Cái này tức là lời tục ngữ chúng ta nói gặp vận hên, gặp vận xui. Bồ Tát không hên, chúng ta rất hên, trong phút chốc thì gặp pháp môn này thì là thành công. Cho nên đoạn nguyện văn này chúng ta phải để tâm quan sát cho kỹ lưỡng.

Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả đây là pháp bình đẳng, chẳng có lựa chọn Hoa Tạng Thế Giới để sanh, đó đương nhiên là Bồ Tát rồi, địa vị đó cao.

Còn chúng ta là phàm phu làm sao có thể so sánh được?

Tất cả chúng sanh đương nhiên là thập pháp giới, nói một cách khác toàn bộ đều bao quát trong đó, tự tri vô lượng, kiếp thời túc mạng, chẳng giống như A La Hán biết năm trăm đời túc mạng mà vô lượng kiếp thời túc mạng. Cho nên vừa vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cho dù hạ hạ phẩm vãng sanh cũng là như vậy.

Bởi vì trong nguyện văn của Ngài chẳng có nói hạ hạ phẩm trừ ra, Ngài không có nói, cũng chẳng có nói thượng thượng phẩm sanh có năng lực thần thông chẳng có nói cái này. Vậy nói một cách khác hạ hạ phẩm vãng sanh cũng là năng lực này, đây mới là pháp bình đẳng.

Cho nên đến được Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, chúng ta tiền kiếp, trước tiền kiếp. Chúng ta hiện nay có rất nhiều người muốn biết tiền kiếp đi tìm nhiều người thông linh, lại có số người đi tìm cái gọi là thuật thôi miên, muốn biết đời trước, nhiều lắm cùng chỉ biết được một đời còn hai đời ba đời thì không biết nữa.

Sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì đời quá khứ đời đời kiếp kiếp, vô lượng kiếp đến nay anh cả thảy đều biết hết, hà tất phải đi tìm những thứ phiền phức này?

Hiện nay trong xã hội này, chuyện lừa gạt rất nhiều, những người thông linh này cho anh biết đời trước chưa hẳn là thật, có thể mắc mưu, bị lừa tự mình vẫn chẳng hay biết.

Đến được Tây Phương Thế Giới tự mình đều biết cả. Đời đời, kiếp kiếp, việc thiện anh làm, việc ác anh làm đó toàn bộ đều biết. Tự mình đều hiểu được trong đời quá khứ đời đời kiếp kiếp luân hồi tại đâu, từng ở thế giới nào cũng thảy đều biết hết cả.

Cho nên vô lượng kiếp đến nay, bà con quyến thuộc của chính mình thì anh thảy đều nhớ hết cả, đều rõ hết… một khi đến Tây Phương Thế Giới thì có năng lực này.

Giai năng động thị đây là thiên nhãn cùng với Phật như nhau, ở chỗ này chẳng nói giới hạn, thập phương sát độ, vô lượng vô biên thế giới anh đều xem được rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch.

Chúng ta hiện nay rất đáng thương, phía dưới lầu bốn, nghe nói còn có rất nhiều người đang ở đó nghe Kinh, chúng ta chẳng thấy, nếu như Cực Lạc Thế Giới thì là trong suốt, toàn bộ đều thấy cả, bên kia địa cầu là nước Mỹ cũng nhìn thấy rõ ràng, những người đó đang làm gì?

Càng xa hơn nữa tha phương thế giới tất cả Chư Phật sát độ đều ở trước mắt, họ có được năng lực này. Cho nên, có khi trong lòng chúng ta bị tình cảm buộc ràng đến với người thân của mình, người mà mình ưa thích đều niệm niệm chẳng quên hy vọng giúp đỡ họ, chúng ta có cái tâm này, có cái nguyện này nhưng chẳng có năng lực.

Cho nên anh phải biết, đến được Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì có năng lực này. Thân thích, quyến thuộc của chúng ta bất luận họ sanh vào một đạo nào, anh trông thấy họ, họ nói chuyện anh nghe được, tình trạng của họ anh nghe rõ ràng minh bạch, thời thời khắc khắc anh có thể thị hiện đi giúp đỡ họ. Đó thật đã có trí tuệ, có năng lực rồi.

Tâm nguyện của chúng ta mới gọi là chân thật vãng sanh, tâm nguyện của chúng ta mới là chân thật. Không vãng sanh thì tâm nguyện cuả chúng ta đều sẽ chẳng đạt được mục đích, anh chẳng có năng lực. Triệt thính là thiên nhĩ.

Thập Phương Thế Giới tất cả chúng sanh họ nói những tiếng gì anh cũng nghe được rất rõ ràng, dù có nói khe khẽ cũng nghe được rất rõ, thần thông quảng đại.

Tôn Ngộ Không trong tiểu thuyết sánh với họ kém hơn quá xa, Tôn Ngộ Không mới có bảy mươi hai phép, một cái cân đẩu nhào lộn là mười vạn dặm, chẳng biết phải lộn bao nhiêu cái cân đẩu mới lên đến được.

Còn đây thì chỉ cần lộn một niệm là đến ngay, cho nên Tôn Ngộ Không nếu cùng họ so sánh thì cách nhau một trời một vực, thua kém quá xa. Năng lực đó quá nhỏ, chẳng đáng nói đến. Bên trong này có năng lực thần thông như thế. Đây đối với sự tu hành giúp đỡ vô cùng vô cùng lớn lao.

Chúng ta biết người thế gian vì sao có tham sân phiền não?

Tại sao có thể khởi hoặc tạo nghịêp?

Thật tại mà nói tức là mê nơi chân tướng sự thật của nhân quả mới có thể khơi dậy những thứ mê hoặc này, mới có thể tạo nghiệp.

Nếu như đối với chân tướng sự thật này đều có thể thông rõ, họ làm sao có thể khởi phiền não?

Họ làm sao có thể mê hoặc?

Làm sao có thể tạo nghiệp?

Cho nên Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, vị A Di Đà Phật này với những thiết kế của giáo học thật tại đã khởi dậy tác dụng rất lớn, tập khí phiền não từ vô thỉ kiếp của chúng ta khi đến nơi đó thì toàn bộ bị hóa giải hết, tại sao vậy?

Sự việc của quá khứ, hiện tại và vị lai đều biết cả, đều thấy được cả, đều nghe được cả, đều hiểu được cả. Điều này so với Chư Phật Như Lai khác giảng Kinh, nói pháp đơn giản hơn quá nhiều.

Phương pháp đích thực là cao minh. Tri thập phương không gian quá khứ, vị lai và hiện tại đây là tam thế thập phương tam thế, việc gì anh đều biết cả, anh đều rõ cả, anh đều thấu hiểu cả.

Bất đắc thị nguyện, bất thủ chánh giác, vậy A Di Đà Phật thành Phật rồi cái nguyện này cũng thảy đều thực hiện. Cho nên hiện nay thế gian có một số người nói họ có thần thông, có công năng đặc dị gì đó.

Thì anh có thể nói với họ rằng: Đây chẳng có chi là phi thường, qua vài năm nữa, anh xem tôi đây, anh làm sao sánh kịp?

Đúng là quả thật như vậy. Chúng ta hiểu được chân tướng sự thật này, cho nên hãy đàng hoàng niệm Phật vài năm để vãng sanh thì tất cả đều được hết.

Vậy thì cùng với thần thông đức năng trên quả địa của Như Lai chẳng phải Bồ Tát có thể so sánh nỗi, thiểu thông của họ ăn thua gì đâu?

Những năng lực có được của những người ở Cực Lạc Thế Giới chúng ta gọi là thần thông đức năng.

Năng lực chỗ có được, tuyệt đối chẳng phải trong Kinh đại thừa chỗ nói những thứ dùng thiền định cùng các phương pháp khác tu được đó, cùng với cái của họ khác nhau, khi nãy đã nói đây là báo đức là sự tu học trong ngàn ức năm của A Di Đà Phật. 

Sự viên mãn thành tựu của năm kiếp là bằng đức năng như vậy, gia trì cho chúng ta, cái lý bên trong vô cùng thâm sâu, kỳ diệu của sự tướng hiện được không gì bằng. Đạo lý vô cùng vô cùng thâm sâu.

Chẳng phải chẳng có lý luận y cứ, chẳng có lý luận y cứ chúng ta xem đến quả thật chỉ là chuyện thần thọai mà thôi. Cho nên pháp môn này là nan tín chi pháp, đạo lý quá sâu. Ngay cả đến Đẳng giác Bồ Tát nếu chẳng được sự gia trì của Như Lai họ cũng chẳng rõ, cho nên có thể tin được chẳng phải dễ dàng.

Kinh phía sau nói đến người có thể tin là vô lượng kiếp trong đời quá khứ cái thiện căn phước đức chỗ huân tập được anh ngày nay đã thành tựu rồi, nếu chẳng phải túc căn thành tựu của vô lượng kiếp, cho dù ngày nay anh có gặp được cũng sẽ đem nó coi như tiểu thuyết để nhìn, coi như truyền kỳ để xem, anh sẽ chẳng tin. Cho nên pháp môn này người thông thường chẳng thể tin được.

Tôi đã nói rất nhiều lần đó là việc thông thường. Nếu họ vừa mới nghe thì liền tin, liền tiếp thọ đây là việc rất không bình thường. Đây đều là sự thật, cho nên cái năng lực thông này của họ siêu việt hơn tất cả Bồ Tát còn Thanh Văn, Duyên Giác đó là càng chẳng cần phải nói nữa. Xin lại xem tiếp đoạn thứ tư.

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh phải xem từ cú trong nguyên văn này. Sở hữu chúng sanh là bình đẳng, chẳng có lựa chọn, chín pháp giới hữu tình chúng sanh này nhất luật bình đẳng.

Sanh ngã quốc giả, giai đắc tha tâm trí thông tha tâm thông, tha tâm thông gì đây?

Tha là người khác, trong tâm của người khác khởi tâm động niệm họ đều biết. Cho nên quý vị đồng tu, quý vị phải để ý phải cẩn thận đừng tưởng rằng cái niệm khởi động trong tâm anh chẳng có người hay biết, người ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới ai nấy đều biết hết cả, nhất cử nhất động của anh, họ thấy đã thấy được cả, anh nói chuyện khe khẽ với người khác họ nghe được, khởi tâm động niệm họ cũng biết được, đừng tưởng chẳng có người biết.

Người ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới quá nhiều, quá nhiều. Đếm không hết, tất cả thể đều biết cả. Đây đều là sự thật cho nên muốn làm một học sinh của A Di Đà Phật, là một đệ tử Phật, tương lai cùng họ là bạn học thì khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác của chúng ta thì anh phải biết họ đều trông thấy cả, họ đều nghe thấy cả, họ đều hiểu biết cả, không một thứ gì lừa được họ.

Chúng ta có đáng mặt tham dự pháp môn của họ chăng?

A Di Đà Phật cho dù có từ bi muốn tiếp dẫn chúng ta nhưng nhóm bạn học kia không tiếp nhận chúng ta thì A Di Đà Phật sẽ chẳng đến tiếp dẫn, những điều này phải nên nghĩ đến, là đức năng tương lai của chính chúng ta cũng chính là những bạn đồng tu ấy họ hiện nay đều đầy đủ cả.

Cho nên người niệm Phật tâm địa phải thanh tịnh, phải chánh đại quang minh, chẳng làm những việc trái với lương tâm. Kẻ khác có lỗi với ta thì được nhưng ta chẳng thể có lỗi với người, kẻ khác gạt ta thì được nhưng ta chẳng gạt người.

Vì sao vậy?

Họ làm đó là nghiệp luân hồi, còn ta ngày nay tạo tác là phải sanh về Tây Phương. Tất cả những gì của ta phải lấy Tây Phương Cực Lạc Thế Giới làm tiêu chuẩn, tiêu chuẩn của Tây Phương Thế Giới tức là bốn mươi tám nguyện, tức là Kinh Vô Lượng Thọ.

Trong Kinh Vô Lượng Thọ chỗ nói đó chúng ta đều phải làm được, như vậy mới có thể sanh về Tây Phương, như vậy mới có thể tăng cao phẩm vị.

Nhược bất tất tri, ức Na do tha bá thiên Phật sát, chúng sanh tâm niệm giả bất thủ chánh giác. Anh xem. Phần nguyện văn này rõ ràng biết mấy. Minh bạch biết mấy.

Ức Na do tha tức là vô lượng vô biên Chư Phật sát độ, trong đó tất cả chúng sanh trong tâm tưởng những gì, niệm những gì?

Thảy đều biết cả. Cho nên năng lực này đích thực đã vượt hơn Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền giáo Bồ Tát cho đến trên Hội Hoa Nghiêm bốn mươi mốt vị pháp thân Đại Sĩ, tuyệt đại đa số đều chẳng thể cùng Ngài so sánh được. Cho nên năng lực này quả là Bát địa Bồ Tát trở lên, Bát địa trở xuống đều chẳng thể so sánh với Ngài.

Cho nên thần thông trí tuệ của Ngài. Cái đạo lực siêu thắng này. Quả thật đã đạt đến chỗ cùng cực. Cũng vì sự thật này tất cả Chư Phật không thể không tán thán A Di Đà Phật, không thể không bội phục A Di Đà Phật, cũng không thể không đem học trò của mình tất cả thảy đều giới thiệu cho A Di Đà Phật.

Cho nên hiện nay Chư Phật độ chúng sanh tiện lợi hơn, dùng phương pháp gì?

Là đều khuyên họ đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì được phổ độ, đều đem họ về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới giao cho A Di Đà Phật thì là đúng.

Cho nên hiện nay tất cả Chư Phật Như Lai ở mười phương thế giới như là đều giúp A Di Đà Phật để chiêu học sinh, những người không vâng lời thì cùng họ nói nhị thừa tam thừa, nói những thứ Phật Pháp này. Còn vâng lời đều đưa về Cực Lạc Thế Giới là lập tức thành Phật.

Sự thật chân tướng này chúng ta cũng ở tại chỗ này mới hiểu rõ, mới nhìn ra được. Những vị Bồ Tát này, những người ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới có năng lực như vậy, cũng tức là bảo tri kỷ tri bỉ, họ có túc mạng thông là tự tri vô lượng kiếp đến nay đời đời kiếp kiếp tự mình biết rõ, tự mình hiểu rõ, tự tri là biết.

Biết kẻ khác là tri bỉ, tri kỷ tri bỉ giáo hoá chúng sanh mới khế cơ, chúng sanh mới dễ được độ. Cho nên họ mỗi ngày đến mười phương Chư Phật sát độ, cúng Phật, nghe Pháp, còn tuỳ duyên thì độ chúng sanh, họ có năng lực này, họ có năng lực như vậy.

Chúng ta phải hỏi, chúng ta sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới bao lâu mới có được năng lực này?

Chỗ này chẳng có nói sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới phải một kiếp, hai kiếp mới có được năng lực này, chẳng có nói. Vậy thì vừa đến thì có năng lực này. Vậy là nói đúng. Nhất định là ý nghĩa này, vừa đến là có, vừa thấy A Di Đà Phật thì năng lực này khôi phục ngay.

Thật tại mà nói đây chẳng phải là khôi phục mà là Phật lực gia trì, mãi cho đến khi chúng ta tự mình ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tu hành, ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tu hành mức tiến bộ vô cùng, vô cùng nhanh chóng.

Quyết định không thoái chuyển. Bởi vì chẳng phải tiếp nhận có một mình anh, A Di Đà Phật giáo hóa, anh mỗi ngày đi tham vấn mười phương tất cả Chư Phật, anh nghĩ thử xem, anh mỗi ngày nghe pháp, bao nhiêu Phật Pháp, bao nhiêu vị Phật cùng anh nói pháp, cho nên sự tiến bộ đó đương nhiên nhanh chóng rồi, cho đến khi mình thật sự đạt được đến chỗ này.

Chính mình thật sự chứng được Thập địa rồi, A Di Đà Phật vẫn gia trì anh, khiến cho đạo lực, trí tuệ thần thông của anh so với nơi khác đồng đẳng cấp Thập địa Bồ Tát, còn hiện vẻ cao minh hơn. Đây là Tây Phương Thế Giới thù thắng không chi sánh bằng.

Làm sao có thể không đi?

Xưa kia thầy Lý có nói, nếu người chẳng chịu vãng sanh thì người này chẳng phải ngu si thì là cuồng vọng nói một cách khác là không bình thường, người bình thường có một người nào chẳng tin, chẳng muốn vãng sanh ư?

A Di Đà Phật!

***