Ñeä Töû Quy laø tri thöùc cuûa ngöôøi xöa ñeå laïi.
Toå Tieân nhaân haäu giuùp ñôõ cho neân
Quoác Gia, xaõ hoäi, ñôøi soáng cuûa Quyù vò
khi thöïc haønh seõ ñöôïc keát quaû toát ñeïp

detuquy.edu.vn

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP HAI MƯƠI - A

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không


TẬP HAI MƯƠI - A
 

Chư vị Pháp Sư, chư vị đồng học, xin hãy ngồi xuống!

Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang mười chín, hàng thứ hai.

Chúng ta đọc một đoạn Kinh Văn: 

Hựu Yếu Giải vân: Ngô nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian. Phi quá khứ, phi hiện tại, phi vị lai. Phi thanh, hoàng, xích, bạch, trường, đoản, phương, viên. Phi hương, phi vị, phi xúc, phi pháp. Mịch chi liễu bất khả đắc, bất khả ngôn kỳ vô. Cụ tạo bách giới thiên như, bất khả ngôn kỳ hữu.

Ly nhất thiết duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn, văn tự tướng, nhi duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn, văn tự, phi ly thử biệt hữu tự tánh.

Lại nữa, sách Yếu Giải nói: Một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai, chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tròn, chẳng phải hương, chẳng phải vị, chẳng phải xúc, chẳng phải pháp, tìm trọn chẳng thể được, chẳng thể nói nó là không. Tạo đủ bách giới thiên như, chẳng thể nói nó là có.

Lìa hết thảy duyên lự, phân biệt, ngôn ngữ, tướng văn tự, nhưng duyên lự, phân biệt, ngôn ngữ, văn tự chẳng lìa điều này mà có riêng tự tánh được, chúng ta xem tới đoạn này. Cụ Hoàng Niệm Tổ trong phần Bổn Kinh Thể Tánh đã dẫn một đoạn từ sách Yếu Giải của Ngẫu Ích Đại Sư.

Vì Kinh Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ thuộc cùng một bộ, cổ nhân gọi hai Kinh ấy là Đại bổn và Tiểu bổn. Kinh Vô Lượng Thọ gọi là Đại bổn, Kinh Di Đà gọi là Tiểu bổn, nhưng thể tánh để y cứ của hai Kinh hoàn toàn tương đồng. Nói thật ra, hết thảy các Kinh đại thừa đều có cùng một thể tánh, thể tánh ấy gọi là thật tướng.

Chúng ta cũng có thể nói như thế này: Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, nói hết thảy các Kinh trong bốn mươi chín năm đã dựa vào đâu?

Nương vào đâu để nói?

Một câu: Chư pháp thật tướng, tức là chân tướng của hết thảy các pháp, dựa vào đây để nói.

Chúng ta lại hỏi một câu: Hết thảy các Kinh đã nói trong bốn mươi chín năm nhằm giảng những gì?

Dùng một câu để trả lời, vẫn là một câu này: Chư pháp thật tướng. Hết thảy các Kinh đã nói trong bốn mươi chín năm nhằm giảng cho chúng ta chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, một câu bèn nói minh bạch. Kinh Bát Nhã thường nói chư pháp thật tướng, bốn chữ này hay lắm.

Ở đây, Ngẫu Ích Đại Sư đã giảng chư pháp thật tướng là như thế nào?

Đoạn này nhằm miêu tả hình trạng của nó. Điều khó hiểu là một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta. Câu này hết sức khó hiểu.

Hiện tiền là chính ngay trong lúc ấy, nhất niệm đã chẳng dễ hiểu rồi. Bình thường, chúng ta khởi tâm động niệm, niệm ấy rất thô, ở đây nói tới niệm vi tế, niệm vô cùng vi tế, chúng ta phải hiểu rõ điều này. Chẳng phải là thô niệm như chúng ta đang khởi tâm động niệm trong hiện tại.

Trong Bồ Tát Xử Thai Kinh có một đoạn nói Đức Thế Tôn đối trước Di Lặc Bồ Tát giảng giải: Phật vấn Di Lặc, tâm hữu sở niệm. Đức Phật hỏi Ngài Di Lặc, tâm có bao nhiêu niệm. Đấy là phàm phu chúng ta, tâm khởi lên một niệm, trong thời gian rất ngắn ngủi, tạm bợ, bèn dấy lên một niệm.

Trong một niệm ấy, có mấy niệm, có mấy tướng, có mấy thức?

Hỏi điều này chúng ta sẽ biết: Phàm phu chúng ta dấy lên một niệm, trong một niệm ấy có bao nhiêu tế niệm, khiến cho chúng ta nhận biết có một niệm dấy lên, có bao nhiêu niệm?

Tướng là hiện tượng vật chất, thức là hiện tượng tinh thần. Tôi nghĩ rất nhiều người trong quý vị đều từng niệm Tâm Kinh. Tâm Kinh nói tới ngũ uẩn. Ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đức Phật hỏi mấy tướng, thì đó là sắc, tức sắc tướng, đây là một phần vật chất.

Mấy thức?

Là nói về thọ, tưởng, hành, thức ở sau thức, có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức?

Di Lặc Bồ Tát đáp lời hỏi của Thích Ca Mâu Ni Phật: Nhất đàn chỉ một cái khảy ngón tay, nói theo phía chúng ta, thời gian khảy ngón tay là một niệm, tức là trong tâm có một niệm. Thời gian khảy ngón tay rất ngắn, đại khái là một giây. Chúng ta khảy nhanh, trong một giây có thể khảy từ bốn lần tới năm lần. 

Nói cách khác, trong một giây chúng ta có chừng bốn tới năm niệm, đây là điều chúng ta có thể cảm giác được.

Bồ Tát nói trong một cái khảy ngón tay, có bao nhiêu tế niệm?

Chúng ta không có cách nào tưởng tượng được. Ngài nói ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn là đơn vị, trăm ngàn là mười vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn, quý vị thấy một cái khảy ngón tay là như thế đó.

Phàm phu chúng ta cảm giác đó là một niệm, nhưng trong một cái khảy ngón tay có nhiều niệm như thế. Tôi tin tưởng Đức Phật nói lời chân thật, điều này khiến cho chúng tôi nghĩ đến lời Thế Tôn đã nói trong Kinh Nhân Vương, đó là nói phương tiện, chẳng phải là chân tướng sự thật, mà là nói phương tiện.

Trong Kinh Nhân Vương, Đức Phật nói một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát na, một sát na có chín trăm lần sanh diệt, giảm rất nhiều.

Tìm Di Lặc Bồ Tát để hỏi, Di Lặc Bồ Tát là chuyên gia Duy Thức, nói như bây giờ, Ngài là chuyên gia tâm lý học trong Phật Giáo, chuyên môn giảng tâm lý học, lời Ngài nói nhất định là sự thật, chẳng phải là nói phương tiện, mà là nói chân thật.

Một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Chúng ta lấy ba mươi hai ức nhân với mười vạn, tức là nhân với một trăm ngàn, thành ba trăm hai mươi triệu.

Trong một khảy ngón tay có ba trăm hai mươi triệu niệm, như vậy là có bao nhiêu hiện tượng vật chất?

Bồ Tát nói: Niệm niệm thành hình, trong mỗi niệm đều có hiện tượng vật chất. Hình đều có thức, trong mỗi hiện tượng vật chất đều có hiện tượng tinh thần, cũng là ngũ uẩn trọn đủ, sắc, thọ, tưởng, hành, thức ngũ uẩn trọn đủ.

Ngũ uẩn là cơ sở, căn bản của hết thảy các pháp, giống như nay chúng ta nói tới nguyên tử, điện tử, lạp tử cơ bản, nhục nhãn chẳng nhìn thấy những cơ sở vật chất hết sức vi tế ấy. Ngài nói vật chất và tinh thần đồng thời phát sanh. Lại còn chẳng tách rời, trong vật chất có tinh thần, trong tinh thần có vật chất.

Nếu trong tinh thần chẳng có vật chất, tìm không ra, thì trong vật chất chẳng có tinh thần, cũng tìm không được, vì sao?

Chúng đồng thời phát sanh, chắc chắn chẳng thể phân cách, chúng là một thể. Gần đây, tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đã dùng thời gian mười mấy năm, phải biết đến năm nay đã là mười hai năm, hay mười ba năm, nghiên cứu nước, phát hiện nước có đủ ngũ uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức trọn đủ. Nước là một vật thể, là hiện tượng vật chất, hơn nữa là khoáng vật.

Chúng ta nói khoáng vật, chẳng phải là sinh vật, phát hiện nước có thể thấy, nghe, hiểu ý con người, chúng ta khởi tâm động niệm nó đều biết. Thiện niệm hay ác niệm nước đều hiểu toàn bộ.

Những điều này đều được trắc nghiệm, thí nghiệm mười mấy năm, chẳng sai chạy mảy may. quý vị thấy trong hiện tượng vật chất lại có hiện tượng tinh thần.

Hơn nữa, chúng ta phải biết: Một cái khảy ngón tay là ba trăm hai mươi triệu niệm, những niệm ấy là tế niệm. Lúc chúng ta dấy lên một niệm vi tế, trong một sát na có nhiều tế niệm dường ấy. Mỗi niệm đều sanh ra hiện tượng vật chất, trong mỗi hiện tượng vật chất đều trọn đủ hiện tượng tinh thần.

Hôm nay có một đồng học cho tôi biết: Ông ta hạ tải download từ Internet một văn bản, theo đó, một khoa học gia của Mỹ đã tiến hơn nữa, phát hiện nước có năng lực ký ức, điều này cũng được các khoa học gia chứng thực. Nước không chỉ có thể thấy, nghe, hiểu được ý tưởng của con người, mà còn có thể ghi nhớ.

Điều này hoàn toàn tương ứng với những điều được giảng trong Kinh Phật: Một hiện tượng vật chất dù nhỏ đến mấy đi nữa, nói theo danh từ trong Kinh Phật là vi trần, nói theo khoa học hiện thời là lạp tử cơ bản, nhục nhãn không thấy được, vẫn trọn đủ hết thảy các thông tin viên mãn trong vũ trụ.

Kinh thường nói: Giới tử nạp Tu Di, Tu Di nạp giới tử hạt cải bỏ vào núi Tu Di, Tu Di bỏ vào trong hạt cải, đây là nói lớn và nhỏ chẳng hai. Kinh Hoa Nghiêm nói trong vi trần có thế giới, thế giới trong vi trần và thế giới bên ngoài to như nhau, trong thế giới ấy lại có vi trần, trong vi trần lại có thế giới, trùng trùng vô tận.

Vì sao có hiện tượng này?

Ở đây, Ngẫu Ích Đại Sư cũng giải thích rất tuyệt, vì điều này thuộc về tự tánh, tự tánh có công đức viên mãn. Trong tự tánh chẳng có lớn hay nhỏ. Vì vậy, trong nhỏ có thể hiện lớn, trong lớn có thể hiện nhỏ, chẳng có lớn hay nhỏ, tự tại vô ngại.

Trong tự tánh chẳng có thời gian, chẳng có quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng chẳng có không gian, không gian là khoảng cách, chẳng có. Kinh Di Đà nói Thế Giới Cực Lạc cách đây mười vạn ức Cõi Phật, trong tự tánh đương hạ tức thị ngay nơi đây chính là. Điều này rất khó hiểu, nó là một sự thật rất khó hiểu, đấy là thật tướng, thật tướng của các pháp là như thế đó.

Vì vậy, sách Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán là do Hiền Thủ Quốc Sư đã hoàn toàn căn cứ trên giáo nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm để viết thành bài luận văn ấy. Bài luận văn ấy chẳng dài, nhưng đã thật sự giảng viên mãn rốt ráo vũ trụ quan và nhân sinh quan của đại thừa.

Vũ trụ do đâu mà có?

Vạn vật do đâu mà có?

Ta do đâu mà có?

Do tự tánh biến hiện. Trong Đàn Kinh, Huệ Năng Đại Sư đã giảng rất hay, Ngài kiến tánh, thưa bày với thầy là Ngũ Tổ Nhẫn Hòa Thượng.

Quý vị phải biết: Huệ Năng Đại Sư không biết chữ, chưa hề học hành. Ngũ Tổ giảng Kinh Kim Cang cho Ngài, chắc chắn là giảng đại ý Kinh Kim Cang, nửa đêm canh ba trong Phương Trượng Thất, chúng tôi phỏng đoán thời gian nhiều nhất là hai giờ.

Giảng tới câu ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm hãy nên đừng trụ vào đâu để sanh tâm, Ngài bèn hoảng nhiên đại ngộ, trong Thiền Tông gọi sự hoảng nhiên đại ngộ ấy là minh tâm kiến tánh.

Kiến tánh là như thế nào?

Ngài báo cáo rất đơn giản, năm câu: Hà kỳ tự tánh, bổn tự thanh tịnh nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, điều này trọng yếu.

Cũng có nghĩa là nói: Tự tánh là chân tâm, có thể hiện, có thể sanh năng hiện, năng sanh. Vạn vật, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là sở hiện sở sanh cái được hiện, cái được sanh. Chân tâm có thể hiện, có thể sanh, vĩnh viễn thanh tịnh.

Câu thứ hai, Ngài nói: Bổn bất sanh diệt vốn chẳng sanh diệt, tự tánh là cái ta chân thật, tức là cái mà trong Tông Môn gọi là phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra, đó là chân ngã. Thân này là giả ngã, chẳng phải là ngã, vốn chẳng sanh diệt. Câu thứ ba là bổn tự cụ túc vốn tự trọn đủ, nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ.

Trọn đủ là gì?

Chẳng có mảy may khiếm khuyết.

Dùng một câu trong Kinh Hoa Nghiêm để giải thích thì như trong Phẩm Như Lai Xuất Hiện, Đức Phật đã nói: Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai, đấy là vốn tự trọn đủ. Vì vậy, trí huệ sẵn có trong tự tánh, quý vị và hết thảy Chư Phật Như Lai chẳng khác nhau. Đức là đức năng, là đức hạnh, cũng chẳng khác nhau. Tướng hảo cũng chẳng khác nhau.

Câu này chính là phân nửa của tựa đề Kinh này: Đại thừa là trí huệ, Vô Lượng Thọ là đức, Trang Nghiêm là tướng hảo, hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai, trọn đủ. Chẳng phải cầu từ bên ngoài, hễ quý vị kiến tánh sẽ đạt được. Huệ Năng Đại Sư trọn chẳng nói lời hư giả với chúng ta.

Câu thứ tư là: Bổn vô dao động vốn chẳng dao động, đây là tự tánh vốn định, chẳng phải do tu thành.

Câu cuối cùng là: Năng sanh vạn pháp có thể sanh ra vạn pháp. Vì vậy, nói tới đức hạnh và tự thể của chính mình là bốn câu trước, câu cuối cùng là nói tới tác dụng, đức dụng, có thể sanh ra vạn pháp.

Sanh ra vạn pháp như thế nào?

Nhất niệm dấy lên. Nhất niệm ấy chẳng có nguyên nhân. Trong giáo pháp đại thừa gọi nhất niệm ấy là vô minh, tức là vô thỉ vô minh. Vô minh là động, một niệm ấy dấy động.

Hễ động, nó bèn hiện tướng, hiện tướng gì?

Hễ động, A lại da bèn hiện ra. Bất động, chẳng có A lại da A lại da là vọng tâm, bất động là chân tâm. Vừa động, chân tâm liền biến thành A lại da.

Quý vị phải biết: Câu này rất khó giảng, lúc mọi người nghe nói phải nghe ra ý nghĩa của nó, đừng hiểu lầm nơi mặt ngôn ngữ.

Chân tâm bất động, nó vốn chẳng dao động, làm sao nó động được?

Động, nhưng sự động ấy chẳng phải là thật. Quý vị hiểu sự động ấy chẳng phải là thật, nó nương theo y tự tánh mà dấy lên một hiện tượng, hiện tượng ấy gọi là A lại da. A lại da là vọng tâm, vọng tâm nương vào chân tâm mà dấy lên, chẳng phải là chân tâm.

Một niệm tối sơ ấy chẳng có khởi đầu, vì sao?

Ngay chính khi đó, chẳng có quá khứ, chẳng có vị lai. Quý vị thấy một cái khảy ngón tay là ba trăm hai mươi triệu niệm, mỗi niệm đều là ngay lập tức. Hiện tượng này, nói thật ra là một thứ tương tự tương tục tướng tướng gần giống như liên tục.

Đúng như chúng ta thấy trong điện ảnh, điện ảnh trước kia, chứ không phải hiện thời, hiện thời họ dùng kỹ thuật mã hóa digitalized, chẳng dễ gì nhìn ra được. Trước kia dùng cuộn phim nhựa. Phim nhựa là phim được soi bằng đèn chiếu lên từng tấm một.

Tốc độ chiếu phim là hai mươi bốn tấm trong một giây, mỗi một tấm phim đều khác nhau, từng tấm độc lập, chẳng giống nhau. Vì vậy, nó là tương tự. Chúng ta nói là đại đồng, tiểu dị, tương tự, tướng gần giống như liên tục. Trong một giây, sanh diệt hai mươi bốn lần, lừa dối khiến chúng ta thấy nó giống như thật.

Còn đối với hiện tượng trong hiện tiền, trong một giây là bao nhiêu tấm, bao nhiêu lần?

Nếu một giây khảy ngón tay bốn lần, sẽ là một ngàn hai trăm tám mươi triệu. Nếu khảy ngón tay năm lần, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu.

Vì vậy, dùng phim ảnh để nói thì trong một giây sẽ có một ngàn sáu trăm triệu tấm phim được chiếu ra, chúng ta làm sao biết nó là giả cho được?

Huyễn tướng mà. Tâm tánh, thưa quý vị, chính là tánh trong minh tâm kiến tánh. Tánh chẳng có trong, ngoài, cũng chẳng ở giữa, trong, ngoài, trung gian đều ở trong tánh, chẳng lìa khỏi tánh, chẳng rời khỏi tự tánh. Chẳng phải là quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.

Đấy là chẳng có thời gian, còn những điều trong phần trên chẳng có trong, ngoài, cũng chẳng ở giữa tức là chẳng có không gian. Nó chẳng có hình tướng, chẳng có sắc tướng, dài, ngắn, vuông, tròn là hình tướng, cái gì cũng chẳng phải. Tìm chẳng thể được, thật đấy.

Vì sao?

Sáu căn chẳng duyên được, mắt nhìn chẳng thấy nó, tai chẳng nghe được nó, tâm nghĩ chẳng ra. Tâm tưởng là thức thứ sáu, tức ý thức.

Công năng của thức thứ sáu ý thức rất lớn, đối nội bèn có thể duyên đến A lại da, đối ngoại nó có thể duyên tới hư không pháp giới, nhưng chẳng duyên được tự tánh, vì sao?

Nó là vọng tâm, vọng tâm chẳng thấy chân tâm. Vì vậy, tìm chẳng thể được.

Quý vị chẳng thể nói nó là không, vì nó có thể hiện tướng, nó hiện ra gì vậy?

Tạo đủ bách giới thiên như, nhưng chẳng thể nói nó là có. Nó có thể biến hiện bách giới thiên như, nay chúng ta nói là vũ trụ, vạn vật. Vũ trụ vạn vật do nó sanh ra, nhưng quý vị chẳng thể nói vũ trụ vạn vật là có.

Vì sao chẳng thể nói nó là có?

Quý vị phải hiểu duyên khởi của nó, nó là hiện tượng tích lũy trong từng niệm một, giống như chúng ta coi phim, hoặc giống như nhìn vào hình ảnh trên màn hình Tivi, hoặc computer, thấy dường như là có, nhưng trên thực tế, chúng chẳng có, sanh diệt trong sát na.

Phải hiểu sát na thật sự là ba trăm hai mươi triệu lần sanh diệt trong một cái khảy ngón tay. Do sanh diệt quá nhanh, nhanh đến nỗi không cách nào tưởng tượng, nên sanh diệt là chẳng sanh diệt. Câu này có ý nghĩa rất sâu.

Nếu thật sự chẳng có sanh diệt, nói sanh diệt là chẳng sanh diệt, há phải là lời lẽ thừa thãi ư?

Quả thật có sanh diệt, nhưng sanh diệt quá nhanh. Không chỉ năng lực sáu căn của chúng ta chẳng có cách nào thấy được sự sanh diệt này, mà sáu thức của chúng ta tư duy, tưởng tượng nó cũng nghĩ không ra, tốc độ quá nhanh, lục căn, lục thức đều do nó biến hiện.

Phải như thế nào thì mới có thể thấy?

Chúng ta buông lục căn và lục thức xuống, tự nhiên nó sẽ hiện tiền.

Vì vậy, nếu chúng ta hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ dưới cội Bồ Đề là như thế nào ư?

Trong Phương Trượng Thất, Huệ Năng Đại Sư nghe giảng Kinh Kim Cang khai ngộ như thế nào?

Chẳng có gì khác.

Giáo pháp đại thừa dạy chúng ta: Chỉ cần quý vị buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, bèn khai ngộ. Những thứ này và cương lãnh tu hành yêu cầu trong tông môn có cùng một ý nghĩa, tu hành trong tông môn đòi hỏi người ta phải lìa tâm ý thức để tham, tức Tham Thiền.

Tham là như thế nào?

Lìa tâm ý thức mới gọi là tham dùng tâm ý thức thì gọi là nghiên cứu.

Dùng tâm ý thức để tu học Phật Pháp là Phật Học lìa tâm ý thức thì quý vị thật sự học Phật, vì sao?

Quý vị thành Phật.

Tâm là gì?

Tâm là A lại da. Nghiệp tướng trong ba tế tướng của A lại da gọi là tâm. Mạt Na là chấp trước, tứ đại phiền não thường nương theo, đó là chấp trước. Ý thức là phân biệt.

Lìa tâm ý thức là gì?

Lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Lìa sạch sành sanh, tự tánh bèn hiện tiền.

Hiện thời chúng ta đã hiểu đạo lý này, đã hiểu như thế nào?

Đã hiểu gọi là giải ngộ, nhưng chưa có cách nào chứng đắc. Chứng đắc mới hữu dụng, giải ngộ vẫn chưa hữu dụng. Lúc chứng đắc gọi là chứng ngộ, quý vị thật sự buông xuống, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống.

Họ người đã chứng ngộ rất lợi hại, đốn xả, đốn ngộ, ngay lập tức buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Phàm phu thành Phật trong một niệm.

Buông một niệm xuống, rất lợi hại. Qua Kinh Giáo, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật là như vậy, đó là căn tánh viên đốn. Chúng ta thấy Huệ Năng Đại Sư vào thời Đường tại Trung Quốc cũng là đốn ngộ, đốn xả.

Vấn đề là quý vị có chịu buông xuống hay không?

Chẳng chịu buông xuống là giải ngộ, buông xuống là chứng ngộ. Nay chúng ta là giải ngộ, huân tập trong giáo pháp đại thừa nhiều năm như thế, chúng ta thừa nhận, chẳng hoài nghi tí nào, chúng ta cũng có thể được gọi là căn tánh đại thừa trung thượng. Quý vị đã hiểu rõ, minh bạch chân tướng sự thật, chẳng hoài nghi, chẳng buông xuống.

Cổ nhân nói: Ngộ hậu khởi tu sau khi ngộ sẽ bắt đầu tu, nay quý vị phải làm gì?

Buông xuống.

Buông xuống như thế nào?

Lúc ăn cơm, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Lúc mặc quần áo, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Lúc làm việc cũng như thế.

Xử sự, đãi người, tiếp vật cũng như thế, quý vị bèn thành công, đó gọi là tu hành thật sự. Đốn xả khó lắm, Phật, Bồ Tát có phương tiện thiện xảo, dạy chúng ta tiệm tu tu từ từ, từ từ buông xuống. Phải thật sự đoạn trừ tập khí phiền não, đoạn là buông xuống. Do vậy, buông xuống là được. Lúc ăn cơm, chớ nên kén chọn, tùy duyên mà chẳng phan duyên, đó gọi là công phu, tu hành.

Theo như Kinh Giáo đã dạy: Trước tiên là buông thân kiến xuống, Kinh Điển dạy chúng ta điều này. Căn bệnh lớn nhất của chúng ta là chấp trước thân này là ta, có chấp trước ấy là do có tự tư tự lợi nên bèn có tham, sân, si, mạn.

Lời Đức Phật nói là thật, đầu tiên, quý vị phải thấy thấu suốt thân chẳng phải là ta, cái gì là ta?

Tự tánh là ta. Vạn hữu trong vũ trụ do tự tánh biến, tự tánh là ta, hết thảy các pháp, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do tự tánh biến.

Nếu thật sự hiểu rõ ràng y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới và chính mình là nhất thể, thứ nào chẳng phải là ta?

Đông đảo chúng sanh là ta, hoa, cỏ, cây cối là ta, núi, sông, đại địa là ta, khắp pháp giới hư không giới là ta, chúc mừng quý vị, quý vị đã chứng đắc pháp thân, đó gọi là pháp thân. Thân đó và chính mình cùng một thể, là một, chẳng hai.

Vì sao?

Tự tánh biến.

Tự tánh có thể sanh, có thể hiện, A lại da thức có thể biến, cái được hiện được sanh là hết thảy vạn pháp thiên biến vạn hóa, cái thiên biến vạn hóa là gì?

Là A lại da, thức có thể biến. Tánh có thể sanh, có thể hiện. Thức có thể biến, nhất thể. Dùng ngôn ngữ Trung Quốc để nói thì là luân lý, đây là luân lý Phật Pháp, luân lý đại thừa. Luân lý là nói tới quan hệ, trọn hết hư không khắp pháp giới là chính mình.

Quý vị nói quan hệ này có mật thiết lắm hay không. Vì vậy, chỉ cần quý vị kiến tánh, lòng từ bi trong tự tánh tự nhiên sanh khởi, gọi là đại từ đại bi. Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi hiện tiền. Hễ hiện tiền, quý vị sẽ tự nhiên giống như Chư Phật, Bồ Tát, phải phổ độ chúng sanh. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, quý vị làm chuyện này, giúp hết thảy chúng sanh giác ngộ.

Đặc biệt là chúng sanh trong lục đạo đang mê, mê quá sâu, chẳng liễu giải chân tướng sự thật, tự cho mình là đúng. Vì vậy, người giác ngộ nhất định sẽ giúp đỡ những kẻ chưa giác ngộ. Quý vị đoạn phiền não, học pháp môn, thành Phật đạo, những điều đó đều là biểu diễn tuồng cho họ xem, giúp họ giác ngộ.

Pháp môn: Pháp là phương pháp, môn là môn đạo đường nẻo, vô lượng vô biên. Quý vị đã khai trí huệ hoàn toàn, khéo dùng những pháp môn và phương tiện thiện xảo ấy giúp chúng sanh giác ngộ. Thuở Đức Thế Tôn tại thế, Ngài đã vì chúng ta biểu diễn phương pháp này, biểu diễn hết sức sống động. Sau khi chúng ta hiểu rõ, bèn bội phục năm vóc sát đất.

Do vậy, Phật Pháp là gì?

Quý vị phải hiểu điều này. Phật Pháp là giáo học, Thích Ca Mâu Ni Phật ba mươi tuổi khai ngộ liền bắt đầu dạy học, dạy suốt cả đời, bảy mươi chín tuổi viên tịch. Kinh chép giảng Kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm.

Ngài mang thân phận gì?

Chúng ta hiểu rất rõ ràng, nói theo cách bây giờ là mang chức nghiệp của một vị thầy.

Ngài dạy những gì?

Dạy thật tướng của các pháp, chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Dựa vào điều này để thuyết pháp, mà thuyết pháp cũng là để dạy điều này.

Thật sự hiểu rõ chân tướng vũ trụ, chắc chắn quý vị sẽ chẳng làm chuyện sai quấy, chắc chắn sẽ chẳng tạo nghiệp. Người hồ đồ tạo nghiệp, do mê hoặc nên tạo nghiệp, người giác ngộ chẳng tạo nghiệp. Tuy giúp đỡ hết thảy chúng sanh, giúp họ phá mê khai ngộ. Phá mê khai ngộ là nhân, lìa khổ được sướng là quả.

Khổ do đâu mà có?

Khổ do mê mà có. Mê đã phá, khổ sẽ chẳng còn.

Vui sướng do đâu mà có?

Vui sướng là giác ngộ, giác ngộ bèn vui sướng, pháp hỷ sung mãn, do ngộ sẽ được vui sướng.

Muốn giúp chúng sanh lìa khổ được vui sướng, dùng phương pháp gì?

Dùng phá mê khai ngộ.

Dùng phương pháp gì để phá mê khai ngộ?

Dạy học bằng thân hành, ngôn giáo. Đức Phật thị hiện, những gì Ngài đã giảng đều biểu diễn toàn vẹn cho quý vị thấy. Quý vị thấy Ngài chẳng chấp trước món ăn, lần lượt đi xin từng nhà, người ta cho gì ăn nấy, đều hoan hỷ, chẳng kén chọn, chẳng hề.

Thường tùy chúng của Đức Phật là một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, mỗi ngày ra ngoài khất thực, chẳng phải là xin xong sẽ tự mình ăn, chẳng thể vậy.

Sau khi xin xong trở về, bèn để chung những món xin được vào một chỗ, thảy đều dồn chung lại, sau đấy, chính mình lại lấy từ đó ra.

Vì thế nói: Nhất bát thiên gia phạn. Một bát, cơm ngàn nhà, quý vị ăn một bát cơm đúng là xin từ một ngàn nhà bên ngoài, dồn chung lại, trộn lẫn rồi lại chia ra, đó là lợi hòa đồng quân.

Chẳng phải là quý vị xin được món ăn ngon thì hôm nay sẽ ăn ngon lành lắm, kẻ khác chẳng xin được món ngon, sẽ chẳng được nếm món ngon, mà là trộn chung với nhau.

Đức Phật biểu diễn cho chúng ta thấy, nay chúng ta biết: Một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị đệ tử của Ngài đều là những vị Đại Bồ Tát tái lai, giống như diễn tuồng, Thích Ca Mâu Ni Phật đóng vai chính, họ đóng những vai phụ, thảy đều là tới thị hiện, đến hát vở tuồng này biểu diễn cho chúng ta xem, giúp chúng ta giác ngộ.

Các Ngài mới thật sự là giai cấp vô sản, Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời chẳng dựng một ngôi Chùa Miếu nào, vậy thì Tăng Đoàn ở nơi đâu?

Ở ngoài đồng, trong rừng, dưới cội cây. Quý vị hãy suy nghĩ, tư tưởng của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vô cùng sống động, chúng ta nói là Ngài hết sức hiện đại hóa, chẳng câu thúc chút nào.

Quý vị thấy quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, chính họ có hoa viên, có biệt thự, mời Ngài đến cúng dường, thỉnh Ngài tới giảng Kinh, Ngài cũng đồng ý, cũng tiếp nhận.

Nổi tiếng nhất là Trúc Lâm Tinh Xá Kalandaka Venuvana, Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên Jetavana Vihara, thời gian Đức Phật trụ tại những nơi ấy cũng khá dài. Nhưng sau khi giảng hết một bài Kinh lớn, Ngài rời khỏi, vật trở về chủ cũ. Nói theo cách bây giờ, Ngài chỉ tiếp nhận quyền sử dụng, chẳng cần tới quyền sở hữu.

Quyền sở hữu vẫn thuộc về chủ nhân các vị, Ngài không cần sẽ giao lại. Lúc Đức Phật nhập diệt là ở trong rừng, chẳng ở trong nhà. 

Vì vậy, chúng ta quan sát cặn kẽ, suy ngẫm ý nghĩa này, đúng là sắc thân ở trong thế gian này cũng chẳng nhiễm mảy trần, chẳng sở hữu một thứ gì, ba y một bát, ngày ăn một bữa ngọ, ngủ dưới cội cây, đắc đại tự tại, thật sự an lạc. Hiện thời, người ta gọi Phật Giáo là Tôn giáo, Thích Ca Mâu Ni Phật nghe như vậy cũng thở dài, oan uổng.

Phật Giáo chẳng phải là Tôn giáo, Phật Giáo và Tôn giáo chẳng dính dáng gì với nhau, làm sao có thể nói Phật Giáo là Tôn giáo?

Ngài suốt đời giáo học. Từ Kinh Điển, nếu chúng ta quan sát cẩn thận, liễu giải Phật, nói theo cách bây giờ, Đức Phật là một nhà giáo dục văn hóa xã hội đa nguyên chánh cống. Suốt đời Ngài biểu diễn cho chúng ta thấy tấm gương của một người có nghĩa vụ làm công tác giáo dục văn hóa xã hội đa nguyên.

Đức Phật dạy học chẳng phân biệt quốc tịch, chủng tộc, Tôn giáo. Từ Kinh Điển, chúng ta thấy có nhiều người Bà La Môn giáo, hay thuộc các Tôn giáo khác ở Ấn Độ, theo Thích Ca Mâu Ni Phật Học tập. Dạy dỗ không phân biệt, Ngài chẳng cự tuyệt, cũng không buộc quý vị thay đổi, tín ngưỡng hay Tôn giáo nào, Ngài thảy đều hoan nghênh. Chúng ta phải học tập điều này.

Đức Phật dạy này nọ, cách dạy như thế nào?

Nhân giới sanh định, nhân định khai huệ, đấy là tổng cương lãnh giáo học của Phật.

Đầu tiên, dạy quý vị trì giới, trì giới là gì?

Giữ quy củ, nghe lời, khiến cho cái tâm của quý vị định. Nói định là phiền não, tập khí thảy đều buông xuống, tâm bèn định. Sau khi tâm định bèn khai trí huệ.

Do vậy, tâm định rồi thì tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm thanh tịnh sanh trí huệ. Cái tâm phập phều, chao động sẽ sanh phiền não, người Hoa gọi cái tâm ấy là tâm phù khí táo bộp chộp, vội vàng, tâm phù khí táo sanh phiền não, tâm thanh tịnh sanh trí huệ.

Vì vậy, tu hành bước đầu tiên là phải đạt được tâm thanh tịnh. Người đạt được cái tâm thanh tịnh, nói theo Phật Pháp là đã đạt được học vị thứ nhất, tức A La Hán. A La Hán đoạn kiến tư phiền não, tâm thanh tịnh, đấy là học vị đầu tiên. Sau đó, tiếp tục nỗ lực, phân biệt cũng buông xuống. Công phu của bậc A La Hán là buông chấp trước xuống.

Chấp trước là kiến tư phiền não. Kinh đại thừa thường gọi phân biệt là trần sa phiền não, trần sa là tỷ dụ nhằm ví von số nhiều. Đoạn trần sa phiền não là chẳng phân biệt, chẳng phân biệt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có tâm phân biệt.

Hiểu rõ ràng cảnh giới trước mặt, đó là huệ. Chẳng phân biệt là định. Định này cao hơn định của A La Hán. Vì vậy, danh xưng của học vị này là Bồ Tát, cao hơn A La Hán. Tới cuối cùng, trong giai đoạn cuối cùng, bèn chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đó là đoạn sạch vọng tưởng, đoạn vô thỉ vô minh. Vô thỉ vô minh là khởi tâm động niệm.

Sau khi đoạn sạch, mười pháp giới chẳng còn. Đạt đến cảnh giới A La Hán, lục đạo chẳng còn, vượt thoát lục đạo. Khi đạt đến cảnh giới Phật, mười pháp giới chẳng còn, lúc đó, nhất chân pháp giới hiện tiền, đó là Cõi Thật báo trang nghiêm của Chư Phật Như Lai.

***