Ñeä Töû Quy laø tri thöùc cuûa ngöôøi xöa ñeå laïi.
Toå Tieân nhaân haäu giuùp ñôõ cho neân
Quoác Gia, xaõ hoäi, ñôøi soáng cuûa Quyù vò
khi thöïc haønh seõ ñöôïc keát quaû toát ñeïp

detuquy.edu.vn

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP MƯỜI - A

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không


TẬP MƯỜI - A
 

Chư vị Pháp Sư, chư vị đồng học, xin hãy ngồi xuống!

Xin xem đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ tám, đọc từ câu cuối cùng nơi dòng thứ sáu trong trang thứ tám.

Thị cố, Niệm Tổ cảm ân đồ báo, phát vô thượng tâm, kính chú thử Kinh, tục Phật huệ mạng. Vì thế, Niệm Tổ cảm ơn, mong báo đáp, phát tâm vô thượng, kính cẩn chú giải Kinh này nhằm duy trì huệ mạng của Phật, lần trước, chúng ta đã học đến chỗ này.

Đoạn trước là phần thưa bày tâm nguyện, mấy câu cuối cùng của Cụ nhằm hồi hướng, vừa cảm ân vừa hồi hướng. Chúng ta sau khi đọc, cũng phải biết cảm ơn, có biết ơn mới có thể cảm ơn. Nếu chẳng biết ân đức, tâm báo ân chẳng thể sanh khởi.

Đặc biệt là chúng ta sanh nhằm thời đại này, gặp nhiều khổ nạn rất ít thấy xảy ra trong lịch sử, cũng có thể nói là: Không chỉ chưa thấy, mà cũng chưa từng nghe nói đến. Nguyên nhân vô cùng phức tạp, như trong Kinh Phật đã nói là vô lượng nhân duyên. Chắc chắn không thể oán Trời hờn người, nói chung là do nghiệp lực của chính mình cảm vời.

Sống trong hoàn cảnh khổ nạn, chúng ta cũng phải cảm thấy may mắn, vì chúng ta biết dùng thân người để nghe Phật Pháp, có thể nghe Kinh Hoa Nghiêm và Tịnh Độ, đó là đã gặp gỡ nhân duyên hy hữu khôn sánh.

Được gặp gỡ, chúng ta đều phải sanh tâm cảm ơn. Tịnh Tông chúng ta có thể gặp được bản hội tập này của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, là bản tiêu chuẩn của Tịnh Tông. Chúng ta có thể tin tưởng là trong chín ngàn năm về sau này, có nhiều người sẽ nhờ bộ Kinh này mà đắc độ.

Lại gặp lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ vâng lãnh lời phó chúc của thầy, Chú Giải cặn kẽ Kinh này. Chúng ta biết khi cụ viết Chú Giải, thứ nhất là tuổi tác đã già, thứ hai là thân thể lắm bệnh.

Trong tình trạng ấy, Cụ chẳng nề hà nhọc nhằn, cay đắng, hoàn thành công tác gian nan, to lớn, vô cùng khó khăn này. Tôi không chỉ là nghe nói, mà ở Bắc Kinh, tôi đã tận mắt thấy.

Thấy sự tình ấy, đương nhiên quý vị sẽ cảm động, cảm nhận một phen khổ tâm của lão nhân, vì sao?

Vì chín ngàn năm sau trong thời kỳ mạt pháp, các đồng học có thể lý giải chính xác bản Kinh này. Sau khi hiểu rõ, mới có thể phát khởi lòng tin. Có lòng tin thì mới có thể thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, vâng theo lý luận và phương pháp trong Kinh này để tu học.

Ân đức ấy to lớn lắm. Thù thắng khôn sánh, công đức viết chú giải trọn chẳng kém công hội tập của thầy Ngài là Cụ Hạ Liên Cư, có cùng một công đức. Do vậy, chúng ta học tập lần này, đặc biệt chọn bản Đại Kinh Giải nhằm tri ân, báo ân. Trước hết, chúng tôi giải thích đơn giản đoạn văn này.

Cảm ân đồ báo cảm ơn, mong báo đáp, cảm ơn như thế nào?

Báo ơn như thế nào?

Đó chính là Lão nhân gia phát vô thượng tâm, cung kính chú giải Kinh này, nhằm tiếp nối huệ mạng của Phật.

Nay chúng ta báo ân bằng cách nào?

Nay chúng ta hãy khéo chiếu theo Kinh, nương theo chú giải, sốt sắng học tập, y giáo phụng hành, đó là tiếp nối huệ mạng của Phật. 

Chúng ta phải tham cứu thấu triệt đạo lý trong Kinh và trong bản chú giải, phải vận dụng những đạo lý ấy vào cuộc sống hằng ngày, thực hiện trong công việc, thực hiện trong xử sự, đãi người, tiếp vật, mục tiêu chung cực là quyết định vãng sanh Tịnh Độ, nghiêm túc báo ân, thật sự tiếp nối huệ mạng của Đức Phật.

Tiếp đó, cụ cầu gia bị, Kiền kỳ lưỡng độ Đạo Sư, nghĩa là kiền thành khẩn cầu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ở phương này và Bổn Sư A Di Đà Phật trong Thế Giới Cực Lạc, hai vị Đạo Sư trong hai cõi.

Thập Phương Như Lai, trong Kinh, cụ thể là trong Kinh Di Đà, chúng ta thấy Chư Phật trong sáu phương tán thán, còn trong bản Kinh này là mười phương Chư Phật tán thán. Thượng Sư bổn tôn là thầy.

Cụ Hoàng, Cụ Hạ đều từng học Thiền Tông, mà cũng đã học Mật Tông. Tông Môn, Giáo Hạ, Hiển Mật viên dung, thảy đều thông đạt, cuối cùng quy hướng Tịnh Độ.

Đây đều là biểu thị pháp cho chúng ta thấy: Bất luận học giáo hay Tham Thiền, hay tu Mật, đến cuối cùng thì sao?

Cuối cùng vẫn phải niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Điều này khiến cho chúng ta nhìn vào hai vị Lão Nhân, họ đã làm như thế nào?

Trên thực tế, họ hoàn toàn học theo hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền trong hội Hoa Nghiêm, đến cuối cùng đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thật sự sanh về Tịnh Độ.

Họ nêu gương cho chúng ta xem, khiến cho chúng ta là những kẻ chẳng có căn khí giống như họ, họ là bậc thượng thượng căn, chúng ta là kẻ trung hạ căn hay hạ hạ căn, hãy nên khăng khăng một mực nhất tâm quy mạng A Di Đà Phật, suốt đời tuân theo một phương hướng là Tây Phương, một mục tiêu là Thế Giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật, đó là đúng, thật sự tiếp nối huệ mạng của Phật.

Chúng ta làm như vậy cũng sẽ ảnh hưởng nhiều người, những người ấy sẽ tiếp tục làm theo. Nói Kim Cang hộ pháp là cầu Thần hộ pháp gia hộ. Từ ân phú hộ từ ân che chở, hộ trì, đó là hộ trì.

Oai đức minh gia là ngấm ngầm gia hộ. Ký thử chú thích, thượng khế Thánh tâm, quảng khải chúng tín, phàm hữu kiến văn, đồng nhập Di Đà nhất thừa nguyện hải mong sao bản chú thích này trên khế hợp Thánh tâm, khơi gợi rộng rãi lòng tin của mọi người.

Có ai thấy nghe đều cùng nhập biển nguyện nhất thừa của Phật Di Đà: Mong cho bản chú giải này được Thích Ca, Di Đà gia trì, được mười phương Chư Phật hộ niệm, chẳng chú giải sai lầm, những câu chữ đã chú giải đều hợp với ý nghĩa giáo hóa của Như Lai. Quan trọng nhất là người đời sau sẽ đối với Kinh này và bản chú giải này tin sâu chẳng nghi, quý vị đạt được lợi ích.

Tổ Ấn Quang nói: Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích. Phàm có ai thấy nghe là nói đến kẻ hữu duyên, Phật độ kẻ hữu duyên, có thể thấy Kinh và bản Chú Giải này chính là kẻ có thể tham dự Pháp Hội này, sẽ cùng nhập biển nguyện nhất thừa của Phật Di Đà. Niệm Phật Đường là A Di Đà Phật nhất thừa nguyện hải.

Nhất thừa là thành Phật, chẳng phải là Bồ Tát, chẳng phải là nhị thừa, hay tam thừa. Nhị thừa là đại thừa và tiểu thừa. Tam thừa là Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Nhất thừa là thành Phật.

Pháp môn này thẳng chóng, ổn thỏa, là pháp môn thành Phật trong một đời, cho nên gọi là nhất thừa nguyện hải. Hai chữ cuối cùng là cảm ơn, tức là cảm ơn A Di Đà Phật đã dùng bốn mươi tám nguyện nhiếp thọ hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới. Những lời mào đầu của Cụ Hoàng đến đây là hết.

Sau đó là phần giải thích bộ Kinh này. Đoạn lớn thứ hai là Khái Yếu. Thập môn phân liệt trung tiền cửu môn. Cẩn thích thử Kinh, y Hoa Nghiêm Tông Pháp cập Di Đà Sớ Sao lệ, tổng khai thập môn.

Chín môn đầu trong cách phân chia, sắp xếp thành mười môn, kính cẩn giải thích Kinh này tuân theo cách chú giải Kinh Điển của Tông Hoa Nghiêm và thể lệ của bộ Di Đà Sớ Sao, chia nội dung bản Chú Giải tổng quát thành mười môn.

Trước hết, nói rõ cách thức mà cụ đã tuân theo trong bản Chú Giải này: Dựa theo cách thức của Tông Hoa Nghiêm. Tông Hoa Nghiêm dùng thập môn khai khải để giới thiệu đại ý của cả bản Kinh, rồi mới giải thích chi tiết Kinh Văn. Trong mười môn ở trước phần giải thích chánh Kinh, đặc biệt là chín môn đầu nhằm làm cho người học tập Kinh Giáo chúng ta, trước khi đọc đến phần chánh Kinh, đã hiểu rõ đại ý của cả bản Kinh.

Ở đây, có hai tầng ý nghĩa: 

1. Tầng ý nghĩa thứ nhất là trước hết khiến cho quý vị liễu giải đại ý của cả bản Kinh, khơi gợi hứng thú học tập pháp môn này. Đấy là điều cần phải có.

2. Những vị lão tham, tức là những người tu hành đã lâu, đối với bộ Kinh này, họ đã rất thuần thục, nhưng họ đến tham dự Pháp Hội để làm ảnh hưởng chúng, họ nghe gì?

Nghe huyền nghĩa phần khái yếu chính là huyền nghĩa. Vì huyền nghĩa là sự thể ngộ thấu hiểu, lãnh ngộ của quý vị đối với cả bản Kinh sẽ được biểu lộ trong ấy.

Cũng có nghĩa là nói: Từ đoạn này, sẽ có thể hoàn toàn thấu hiểu quý vị tu học đến tầng lớp, giai đoạn nào. Nếu người tu hành đã lâu mà nghe là nghe chỗ này.

Đây cũng là nói theo kiểu hiện thời của chúng ta: Huyền nghĩa là tâm đắc tu học. Nghe giảng huyền nghĩa là nghe báo cáo tâm đắc của quý vị, phần giải thích Kinh Văn ở phía sau không cần nghe, họ đã hiểu rất rõ. Tuy đã hiểu rất rõ ràng, nhưng đúng là có không ít người từ đầu đến cuối vẫn nghe hết sức nghiêm túc, hết sức cung kính.

Đó là gì?

Làm anh hưởng chúng, nhằm dẫn dắt kẻ sơ học. Kẻ sơ học đối với Kinh này chưa có tín tâm, hoài nghi, nghe chẳng lọt tai, thấy những vị tu hành đã lâu đều nghe nghiêm túc như thế, lòng tin của họ được tăng trưởng. Các vị ấy đã nêu gương, làm mẫu cho họ.

Người thật sự học Phật bèn hiểu rõ: Bất luận quý vị nghe hiểu hay không, vẫn một mực kiên trì nghe thì quý vị mới có thể nhập môn. Bản chú giải Kinh A Di Đà của Liên Trì Đại Sư có phân lượng rất lớn. Bản chú giải ấy có tên là A Di Đà Kinh Sớ Sao.

Sớ là giải thích Kinh, Sao là giải thích lời Sớ, tức là chú giải lời chú giải. Sớ do Liên Trì Đại Sư viết, mà Sao cũng do Ngài viết. Sau khi đã viết lời Chú Giải, văn tự còn có chỗ rất sâu, sợ người đời sau khó hiểu, nên Ngài lại Chú Giải lời Sớ, từ bi đến mức cùng cực.

Đệ tử của Ngài là Pháp Sư Cổ Đức, là truyền nhân của Liên Trì Đại Sư, sau khi Liên Trì Đại Sư vãng sanh đã biên tập, chỉnh lý tất cả các trước tác của Lão nhân gia đem xuất bản, lưu truyền đến hiện tại. Bản sách in hiện thời gần như là in thành bốn cuốn in chung thành một bộ.

Bốn quyển sách dầy như vậy do Liên Trì Đại Sư trước tác, chúng ta phải cảm kích Pháp Sư Cổ Đức. Pháp Sư Cổ Đức rất từ bi, sợ Sớ Sao vẫn còn có những chỗ rất sâu, luôn mong cho người đời sau hễ đọc sẽ hiểu rất dễ dàng, nên lại viết một bản chú giải sách Sớ Sao gọi là Diễn Nghĩa.

Vì thế, quý vị thấy A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa thì phần Diễn Nghĩa là của Pháp Sư Cổ Đức. Sớ Sao do Liên Trì Đại Sư viết, Sớ Sao do chính Ngài viết.

Lão nhân gia viết Sớ Sao, cũng dùng thập môn khai khải của Tông Hoa Nghiêm, không dễ dàng. Chúng ta có thể hiểu nỗi khổ tâm của Lão nhân gia.

Trong thời đại của Ngài, có thể nói là tại Trung Quốc, Thiền Tông phổ cập khắp nước, phong khí nhà Thiền hưng thịnh, sự hưng thịnh ấy chỉ ở bề ngoài.

Trên thực tế, Thiền hưng thịnh nhất trong hai Triều Đại Đường và Tống, còn họ những người đồng thời với Ngài Liên Trì là người đời Minh.

Tổ Sư thấy tham thiền công phu chẳng đắc lực, nếu muốn vượt thoát lục đạo chẳng dễ dàng. Tu học Phật Pháp, vượt thoát lục đạo được coi là tiểu thành tựu, quý vị chứng đắc tiểu quả.

Nếu chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi, chẳng có thành tựu, chỉ có thể nói là tăng trưởng thiện căn trong A lại da, chẳng thể tính là thành tựu.

Do vậy, Ngài đề xuất pháp môn Tịnh Tông, chẳng ai tin tưởng. Đã thế, mọi người coi rẻ pháp môn Tịnh Độ, thường nghĩ pháp môn Tịnh Độ dành để dạy cho các bà lão. Hiểu lầm là Thích Ca Mâu Ni Phật vì tiếp dẫn những kẻ chẳng có kiến thức nên khuyên họ niệm Phật, toàn là tâm lý và quan niệm sai lầm như vậy.

Làm thế nào để đề cao Tịnh Độ?

Đối với Kinh Hoa Nghiêm, chẳng ai bàn cãi. Kẻ không hiểu Phật Pháp nghe Kinh Hoa Nghiêm cũng bội phục năm vóc sát đất. Do vậy, Ngài bèn dùng thập môn khai khải của Hoa Nghiêm để giảng Phật Thuyết A Di Đà Kinh, đưa Kinh A Di Đà lên ngang tầm Kinh Hoa Nghiêm, đó là nỗi khổ tâm của Liên Trì Đại Sư.

Quý vị chẳng phải là tin tưởng Hoa Nghiêm lắm ư?

Kinh Di Đà chẳng khác gì Kinh Hoa Nghiêm.

Trong giáo pháp đại thừa có câu ngạn ngữ: Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên người viên mãn thuyết pháp, không pháp nào chẳng viên mãn, viên nhân là gì?

Người kiến tánh. Người minh tâm kiến tánh, tùy tiện lấy một pháp nào, cũng đều có thể tương ứng với Hoa Nghiêm. 

Nhìn từ chỗ này, Liên Trì Đại Sư cũng không phải là kẻ bình phàm, kẻ bình phàm sẽ chẳng thể làm được. Ngẫu Ích Đại Sư là tư thục đệ tử của Liên Trì Đại Sư, có quan hệ giống như quan hệ giữa Mạnh Tử và Khổng Tử. Ngài Ngẫu Ích muốn tìm một vị thầy, nhưng tìm không ra.

Quý vị đọc sách do Ngài trước tác, sẽ thấy: Khi ấy, Ngài chẳng vừa ý lắm với những kẻ tu hành trong Phật Môn, nên đã lấy biệt hiệu là Bát bất đạo nhân, chẳng thường qua lại với mọi người, chẳng hợp tính với họ, bị những kẻ tu hành đương thời coi là một quái nhân trong Phật Môn. Khi ấy, Liên Trì Đại Sư đã vãng sanh, nhưng trước tác của Ngài còn đó.

Do vậy, Ngài làm tư thục đệ tử của Tổ Liên Trì, cũng nghĩa là nói Ngài tôn Liên Trì Đại Sư làm thầy. Thầy không còn trên đời, nhưng trước tác của thầy còn đó, bèn dựa theo trước tác của thầy để học tập.

Giống như Mạnh Tử vào thời cổ, Mạnh Tử học Khổng Tử, Khổng Tử cũng đã khuất, nhưng trước tác của Khổng Tử còn đó, Mạnh Tử bèn đọc sách của Khổng Tử, chỗ nào chẳng thấu hiểu, bèn thưa hỏi học trò của Khổng Tử. Ngài học thành tựu, học còn giỏi hơn đệ tử của Khổng Tử. Do vậy, hễ nói tới Nho Gia, toàn là nói Khổng Mạnh, chẳng nhắc tới ai khác.

Điều này cho thấy: Tuy Ngài chẳng được chính Khổng Tử truyền dạy, nhưng chiếu theo sách của Khổng Tử để học, trọn chẳng thua kém học trò do đích thân Khổng Tử đã truyền dạy, thành tích hết sức ưu tú, đấy là người đầu tiên lập ra thể lệ tư thục đệ tử của Trung Quốc.

Trong Phật Môn, Ngẫu Ích Đại Sư học theo Tổ Liên Trì, Ngài bội phục Liên Trì Đại Sư nhất, cũng học theo rất giống, cho nên Ngài Liên Trì là Tổ Sư Tịnh Độ Tông đời thứ tám, Ngẫu Ích Đại Sư là Tổ Sư đời thứ chín, chúng ta đều nên học tập những điều này.

Trong thời đại hiện tại, chúng ta không tìm được thiện tri thức chân chánh, hãy tìm cổ nhân. Học Kinh A Di Đà có thể tìm Liên Trì Đại Sư, học Kinh Vô Lượng Thọ có thể tìm lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là Kim Cang Thượng Sư trong Mật Tông, nên ở đây Ngài có thượng sư bổn tôn.

Cụ Hoàng cũng đã vãng sanh, Lão nhân gia niệm Phật vãng sanh. Khi bệnh nặng, đã báo tin cho tôi biết, mỗi ngày cụ niệm Phật hiệu mười bốn vạn câu, ngủ rất ít, Phật hiệu không ngừng, thật sự vãng sanh.

Mười môn là báo cáo tâm đắc của cụ được chia thành mười đoạn, nói như vậy mọi người sẽ dễ hiểu. Tiếp đó cụ nêu ra mười đề mục, tức là mỗi đoạn có một tiêu đề.

Kế vi nhất, giáo khởi nhân duyên mục thứ nhất là nhân duyên khiến cho giáo pháp phát khởi, thứ hai là Bổn Kinh thể tánh thể và tánh của bản Kinh này, thứ ba là nhất Kinh tông thú tông và thú của Kinh, thứ tư là phương tiện lực dụng, thứ năm là sở bị căn khí căn tánh được tiếp độ bởi bản Kinh này, thứ sáu là Tạng Giáo sở nhiếp.

Kinh này thuộc về Tạng nào và Giáo nào, thứ bảy là bộ loại sai biệt, thứ tám là dịch hội hiệu thích, dịch là phiên dịch, hội là hội tập, hiệu còn đọc là giảo là do Bành Tế Thanh thực hiện, ông ta đã soạn một bản tiết hiệu trích lục, phân đoạn, chỉnh sửa những chữ bị chép lầm, thích là giải thích.

Thứ chín là tổng thích danh đề, tức là giải thích đề mục bản Kinh. Đoạn cuối cùng là chánh thích Kinh nghĩa, bắt đầu giải thích Kinh Văn. Kinh Văn có tất cả bốn mươi tám phẩm.

Tiền cửu môn tổng luận toàn Kinh cương tông bộ loại, thử dữ Thiên Thai Tông chi ngũ trùng huyền nghĩa, đại đồng tiểu dị chín môn trước là luận định chung về cương lĩnh, tông chỉ, bộ loại của cả bản Kinh, điều này giống như phần năm tầng huyền nghĩa của Tông Thiên Thai, chỉ là khác biệt đôi chút.

Tông Thiên Thai dựa trên Kinh Pháp Hoa, Pháp Hoa cũng là Kinh Điển nhất thừa. Báo cáo tâm đắc của họ được chia thành năm đoạn, còn Tông Hoa Nghiêm chia thành mười đoạn. Hoa Nghiêm dùng thập để biểu pháp, thập tượng trưng viên mãn.

Nói chung, vì mười môn rắc rối, nên lịch đại Pháp Sư giảng Kinh khi báo cáo như vậy quá nửa đều tuân theo cách thức của Tông Thiên Thai, đơn giản, rất ít dùng phương pháp của Tông Hoa Nghiêm. Cách của Hoa Nghiêm hay lắm, nhưng phải tốn nhiều thời gian hơn.

Hiện thời, Ngũ Trùng huyền nghĩa dường như cũng không phổ biến lắm. Các báo cáo hiện thời trước hết là nói nhân duyên giảng Kinh là đủ rồi, sau khi đã trình bày xong nhân duyên giảng Kinh, đại khái là nói về đề mục của bộ Kinh sẽ được giảng, rồi bước vào Kinh Văn, ngày càng đơn giản hóa.

Nhưng muốn thật sự nghiên cứu thì phương pháp của Tông Hoa Nghiêm hay lắm. Chúng ta tự mình tu học, chớ nên dùng phương pháp ngắn gọn ấy, không cần thiết, nhưng nếu đi giảng Kinh bên ngoài thì có thể.

Đối với người hiện thời, nếu dùng phương pháp thập môn khai khải này để giảng, giảng một thời gian rất dài mà vẫn chưa được nghe Kinh Văn, họ sẽ chẳng có hứng thú, rút lui.

Vì thế, càng nói đơn giản càng hay. Trước đây, chúng tôi học tập Kinh Giáo tại Đài Trung, thầy luôn giảng những điều này, nhưng vì khế cơ trong xã hội hiện đại, cũng không dùng tới cách này.

Chúng tôi không dùng những đề mục này, nhưng nội dung giảng giống hệt, nêu nhân duyên giảng Kinh: Vì sao muốn chọn giảng bộ Kinh này?

Tiếp đó, giảng đề mục của Kinh. Sau đấy mới giảng thẳng vào chánh Kinh, tức là tiếp theo phần giảng đề mục bèn giảng Kinh Văn. Vì thế, phần huyền nghĩa phía trước giảng một hai giờ là xong, ngày hôm sau đã có thể thấy Kinh Văn. Đấy là nhằm thích ứng căn cơ của đại chúng trong xã hội hiện tại, chúng ta chớ nên không biết điều này.

Phương pháp tu học như trong bản Chú Giải này, thích hợp với chỗ nào?

Thích hợp với Phật Học Viện hay Chùa Chiền. Đối với các đồng tu trong Chùa Chiền, hết thảy mọi người cùng nhau tu hành thì có thể áp dụng phương pháp thập môn khai khải này. Tại các cơ sở thông thường, hoặc khi giảng tại hội trường tạm thời, không thể dùng phương pháp này, chúng ta chẳng thể không biết điều này.

Tổng chi, giai tương nhất Kinh cương yếu, tổng luận ư tiền, phát huy minh liễu, sử độc giả tiên thức tổng thể, hậu nghiên Kinh Văn, cương cử mục trương, dị ư lãnh hội. Nói chung, đem cương yếu của toàn bộ bản Kinh Luận định chung ở đầu sách, nêu bày sáng tỏ, khiến cho độc giả trước hết nhận biết tổng thể, sau đó nghiên cứu Kinh Văn, cái lưới giơ lên, các mắt lưới căng ra, sẽ dễ lãnh hội.

Chúng ta nhìn từ chỗ này, có thể thấy được khuôn mẫu giảng Kinh giáo học trong tùng lâm vào thời cổ. Trong Phật Môn, gọi cách thức này là nghi thức, hiện thời gọi là phương thức, đều có ý nghĩa giống nhau. Trong quá khứ, Chùa Viện Am Đường đều là trường học, quý vị phải biết điều này.

Thích Ca Mâu Ni Phật đi tham học năm mười chín tuổi, chúng ta nhất định phải biết điều này: Trước khi tròn mười chín tuổi, Ngài nhất định đã có cơ sở khá vững vàng nên mới có thể đi tham học. Nếu chẳng có, Ngài sẽ không thể đi.

Tại Trung Quốc, chúng ta thấy chính Khổng Tử đã tự thuật trong Luận Ngữ như sau: Thập ngũ hữu chí ư học mười lăm tuổi đã có chí dốc sức nơi việc học. Chúng ta tin tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật nhất định có chí học hành sớm hơn Khổng Tử, Ngài đã có cơ sở kha khá thì mới có thể tìm thầy, hỏi bạn. Mười chín tuổi đi tham học, tất cả các vị đại đức trong các Tôn giáo và học phái của Ấn Độ, Ngài đều thân cận, chẳng sót một vị nào.

Tham học mười hai năm, Ngài tròn ba mươi tuổi, chúng tôi tin rằng trong mười hai năm ấy, thành tựu của Ngài vô cùng ưu tú.

Ngài hiếu học, lại thông minh, mang tư cách vương tử là một thân phận đặc thù, đến chỗ nào cũng đều được đối xử lễ độ, ai mà chẳng ưa thích một người như vậy?

Ở Ấn Độ vào thời cổ, Tôn giáo lẫn học thuật đều đề xướng thiền định. Tứ thiền bát định được Kinh Phật nói nhắc đến, chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật sáng tạo, các Bà La Môn của Cổ Ấn Độ đã tu trước đó rồi.

Bà La Môn giáo Brahmanism chính là Hưng Đô Giáo Ấn Độ Giáo, Hinduism hiện thời, tôi qua lại với họ rất nhiều, các Trưởng Lão bảo tôi: Giáo lý của họ truyền thừa từ thời cổ đã có lịch sử tối thiểu trên một vạn năm, chúng ta có thể tin tưởng điều này. Thời đại thượng cổ không có văn tự ghi chép, đến khi có văn tự, người Ấn Độ không coi trọng lịch sử, chẳng giống như người Hoa.

Người Hoa hết sức coi trọng lịch sử, năm, tháng, ngày được ghi chép rõ ràng. Người Ấn Độ chẳng làm chuyện này, họ coi trọng khai ngộ, không đặt nặng lịch sử.

Vì thế, chúng ta có thể tin lời các Trưởng Lão Bà La Môn. Văn hóa truyền thống Trung Quốc tuyệt đối chẳng phải chỉ là năm ngàn năm, vì văn tự Trung Quốc mới được phát minh bốn ngàn năm trăm năm. Văn tự được phát minh vào thời Hoàng Đế.

Trước khi văn tự được phát minh những dữ kiện lịch sử được các sử gia coi là truyền thuyết. Trước Hoàng Đế có Thần Nông Thị, trước đó nữa là Phục Hy Thị.

Theo truyền thuyết, từ Thần Nông đến Hoàng Đế là năm trăm năm, từ Phục Hy đến Thần Nông lại là năm trăm năm nữa, tổng cộng là một ngàn năm. Chúng ta nói truyền thống Trung Quốc có năm ngàn năm văn hóa là nói đến Phục Hy và Thần Nông, trước đó vẫn còn có lịch sử cổ hơn.

Khổng Tử tổng hợp những truyền thuyết từ xưa, dùng văn tự ghi chép lại để lưu truyền cho hậu thế. Do vậy, chúng tôi tin trong Luận Ngữ có nhiều câu chẳng do Khổng Tử nói. Khổng Tử Lão nhân gia nói Ngài suốt đời thuật nhi bất tác, thuật là những điều ta nói vốn do người khác nói, do Cổ Thánh Tiên Hiền đã nói, chứ không phải là chính mình, chính mình chẳng sáng tạo hay phát minh.

Tín nhi hiếu cổ tin tưởng, chuộng cổ, đối với truyền thuyết, Ngài tin tưởng, ưa thích. Do vậy, ngũ luân, ngũ thường, tứ duy, bát đức, trọn chẳng phải là đến thời Ngài mới có, chúng ta có lý do để tin những thứ ấy phải từ một vạn năm trở lên. Cổ nhân truyền lại những thứ tinh giản, quý vị mới dễ nhớ, mới không bị biến chất.

Ngũ luân là phụ tử hữu thân, phu phụ hữu biệt, quân thần hữu nghĩa, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu hữu tín cha con có quan hệ thân thiết, vợ chồng có trách nhiệm khác nhau, Vua tôi có nghĩa, lớn nhỏ có tôn ty thứ tự, bạn bè giữ chữ tín, quý vị thấy rất dễ truyền, sẽ chẳng bị truyền sai, ngàn vạn năm vẫn một mực truyền xuống như thế.

Ngũ Thường là thường đạo đạo nghĩa thường hằng, vĩnh viễn chẳng thể thay đổi, đó là đạo, tức năm chữ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đều được đời đời truyền thừa trước khi có văn tự. Tứ duy là lễ, nghĩa, liêm sỉ, bốn chữ ấy.

Bát Đức là tám chữ trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa, bình. Đó là văn hóa truyền thống, đặc sắc và tinh thần văn hóa Trung Quốc. Phát triển cho đến hiện tại, Tứ Khố Toàn Thư được biên soạn vào thời đại Càn Long chính là sách vở các đời tích lũy lại, quý vị hãy xem,sẽ thấy bất luận ai soạn sách, đều chẳng tách rời những nguyên tắc này.

Do vậy, chúng ta dùng ngũ luân, ngũ thường, tứ duy, bát đức để khái quát toàn bộ văn hóa truyền thống của Trung Quốc từ xưa đến nay, chẳng thể nào vượt ra khỏi những nguyên tắc này.

Đến đời Hán, Phật Pháp truyền vào Trung Quốc, tuy chẳng phải là văn hóa bản thổ, nhưng người Trung Quốc tâm lượng lớn, có thể bao dung, có thể dung hợp Phật Pháp và văn hóa bản thổ thành một thể.

Như ông Thang Ân Tỷ Arnodl J. Toynbee đã nói: Phật Pháp phong phú văn hóa bản thổ của Trung Quốc, nâng cảnh giới lên cao hơn. Phật Pháp biến thành văn hóa của Trung Quốc. Nói tới văn hóa Trung Quốc, chắc chắn chẳng thể tách rời Phật Pháp, chúng ta có hiểu điều này mới yêu quý.

Đặt Phật Pháp qua một bên khoan nói tới, đối với những thứ của chúng ta, tức là nói ngũ luân, ngũ thường, tứ duy, bát đức của Trung Quốc, trong thời đại hiện tại, đi khắp địa cầu, bất luận nơi nào, những quốc gia, dân tộc khác biệt, tín ngưỡng, văn hóa khác biệt, đều có thể dung hội, chẳng chướng ngại.

Đây là kinh nghiệm của bản thân chúng tôi trong mấy chục năm gần đây nhất, chúng ta nói rõ ràng, minh bạch, không ai chẳng ưa thích, đều tiếp nhận.

Vì thế, tiến sĩ Thang Ân Tỷ nói: Thế kỷ hai mươi mốt là thế kỷ của người Trung Quốc. Có rất nhiều người hiểu lầm câu nói ấy, tưởng người Trung Quốc xưng hùng xưng bá, chẳng phải vậy, mà là văn hóa truyền thống của Trung Quốc sẽ phổ cập toàn cầu, khiến cho thế giới này có thể thật sự hóa giải xung đột, khôi phục an định, hòa bình, hết thảy mọi người đều cần điều này, chúng ta phải có sự nhận biết này. Phải giống như lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, phải biết báo ân, báo ân Tổ Tiên.

Báo bằng cách nào?

Phải thực hiện văn hóa truyền thống, tức là phải thực hiện ngũ luân, ngũ thường, tứ duy, bát đức, phải nghiêm túc thực hiện. Có như vậy mới là báo ân chân chánh. Quý vị thật sự làm được, hiệu quả sẽ vô cùng rõ rệt, thứ nhất là thân tâm khỏe mạnh.

Phật Pháp nói: Tướng do tâm chuyển. Thân tâm khỏe mạnh, gia đình hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, xã hội an định, tiếp đó là trị quốc, bình thiên hạ. Thiên hạ bình, bình là bình đẳng, là đối đãi bình đẳng, cư xử hòa thuận.

Vì vậy, xã hội trong thế kỷ hai mươi mốt hết sức cần đến học thuyết Khổng Mạnh và đại thừa Phật Pháp, ông Thang Ân Tỷ thấy chẳng sai.

Đoạn thứ nhất trong phần khái yếu là giáo khởi nhân duyên, nay chúng ta học tập đoạn này. Giáo khởi nhân duyên giả, minh đại giáo sở dĩ hưng khởi chi nhân duyên giáo khởi nhân duyên là nói rõ nhân duyên khiến cho đại giáo hưng khởi. Minh là nói rõ, đại giáo là đại thừa. Tịnh Tông thuộc đại thừa. Giáo khởi nhân duyên là lý do vì sao đại thừa Phật Pháp hưng khởi.

Vì sao nó hưng khởi?

Chúng ta học Phật, phải hiểu rõ điều này trước tiên. Trong phần này, chia thành hai đoạn.

Đoạn thứ nhất là sơ minh đại giáo dữ Tịnh Độ pháp môn chi hưng khởi trước hết, nêu rõ sự hưng khởi của giáo pháp đại thừa và pháp môn Tịnh Độ: Vì sao pháp đại thừa và pháp môn Tịnh Độ hưng khởi?

Đoạn thứ hai là tắc tường thuật bổn Kinh hưng khởi chi nhân duyên trình bày cặn kẽ nhân duyên khiến cho Kinh này xuất hiện, đây là nói về nhân duyên hưng khởi của bộ Kinh này, tức đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh.

Chúng ta đọc câu văn kế tiếp: Phù nhất thiết pháp, bất ly nhân duyên hết thảy các pháp chẳng lìa nhân duyên. Phù trợ từ, tuy lão cư sĩ dùng văn tự rất minh bạch để viết lời chú giải, nhưng vẫn theo quy củ của Văn Ngôn.

Chữ phù này là ngữ trợ từ trong văn chương Văn Ngôn, không có ý nghĩa, là tiếng đệm, tức là nói: Hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều chẳng tách rời nhân duyên. Nó được hưng khởi, đại giáo chi hưng, nhân duyên vô lượng, nhi vô lượng nhân duyên duy vi nhất đại sự nhân duyên cố. Đại giáo được hưng khởi bởi vô lượng nhân duyên, nhưng vô lượng nhân duyên chỉ là một đại sự nhân duyên.

Quả thật nhân duyên phát khởi của vạn vật trong vũ trụ đều là vô lượng, vô tận, vô số, chẳng phải là ngẫu nhiên, đúng là vô lượng nhân duyên.

Đức Phật dạy học, đặc biệt là dạy kẻ mới học, đã quy nạp vô lượng nhân duyên thành bốn loại lớn, nói khéo lắm. Trong bốn loại lớn, thứ nhất là thân nhân duyên, thứ hai là sở duyên duyên, thứ ba là vô gián duyên, thứ tư là tăng thượng duyên. Đức Phật chia vô lượng nhân duyên thành bốn loại lớn.

Quý vị phải biết, mỗi loại trong bốn loại lớn này đều là vô lượng nhân duyên. Trong sự giảng học ấy có pháp phương tiện, tức là nói đại lược.

Giống như thực vật, nó sanh trưởng như thế nào?

Nó có hạt giống, hạt giống là thân nhân duyên.

Chẳng có hạt giống, làm sao nó sanh trưởng được?

Nhưng chỉ có mình hạt giống, mà chẳng có những duyên khác. Đem hạt giống ấy bỏ trong chén trà, để cả trăm năm, nó cũng chẳng thể mọc thành cây. Vì thế, nó phải có sở duyên duyên. Có sở duyên duyên, hạt giống nhất định có hy vọng mọc thành cây, đơm hoa, kết quả, nó có một mục tiêu để duyên vào.

Cũng giống như động vật, chúng có cở duyên duyên là nhất định muốn được sanh tồn, còn mong mỏi sẽ sanh sôi nẩy nở thành đời sau. Đấy là bản năng, bản năng như chúng ta đã nói chính là sở duyên duyên. Sở duyên duyên chẳng thể gián đoạn.

Hễ gián đoạn, nó sẽ hủy diệt. Vì vậy, quý vị nhìn vào ba món duyên đầu tiên, ba thứ hiện tượng có cùng một thể. Duyên sau cùng là tăng thượng duyên, nó cũng chẳng thể thiếu.

Tăng thượng duyên: Hạt giống muốn trưởng thành, cần phải có đất đai, cần đến không khí, cần có nước, thậm chí còn phải có sức người giúp nó, nó mới có thể phát triển. Toàn bộ những thứ ấy gọi là tăng thượng duyên. Tăng thượng duyên là sức mạnh bên ngoài giúp đỡ, là ngoại lực. Ba thứ duyên trước đó, chính mình vốn sẵn có. Phật Pháp là nhân duyên sanh, cho nên ý nghĩa này rất sâu.

Phàm thứ gì là nhân duyên sanh do nhân duyên sanh ra sẽ đều chẳng thật. Pháp được sanh bởi duyên sẽ có sanh, có diệt. Có sanh có diệt sẽ chẳng thật.

Vì thế, Đức Phật bảo chúng ta: Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp. Quý vị chớ nên chấp trước Phật Pháp. Hễ chấp trước thân này là ngã, trật rồi. Nếu quý vị chấp trước Kinh Điển là Phật Pháp, cũng trật luôn.

Nó là pháp được sanh bởi các duyên. Thứ nào chân thật sẽ chẳng phải là duyên sanh, nó vốn có. Tự tánh là vốn có, tánh đức trong tự tánh là vốn có.

Trí huệ, đức năng, và tướng hảo vốn sẵn có trong tự tánh. Ý nghĩa này sâu lắm, nó biến thành cái được gọi là triết học cao cấp và khoa học trong hiện thời. Nói pháp duyên sanh với quý vị, đó là sơ cấp, tiểu học và trung học đều có thể học.

Sở dĩ vô lượng nhân duyên chỉ là một đại sự nhân duyên là vì nếu chúng ta tổng quy nạp vô lượng nhân duyên lại, chúng ta sẽ tìm ra nhân duyên quan trọng nhất là gì?

Vì sao phải xuất sanh?

Đó là một đại sự nhân duyên.

Một đại sự nhân duyên là như trong Kinh Pháp Hoa Đức Phật đã dạy: Chư Phật Thế Tôn duy dĩ nhất đại sự nhân duyên cố, xuất hiện ư thế. Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời. Duy dĩ Phật chi tri kiến, thị ngộ chúng sanh chỉ nhằm dùng tri kiến của Phật để chỉ bày, khiến cho chúng sanh khai ngộ.

Trong Kinh Pháp Hoa có một câu nói về đại sự nhân duyên như sau: Khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến.

Vì sao mười phương Chư Phật, Bồ Tát, đến ứng hóa trong thế gian?

Vì chuyện này. Bởi lẽ, Phật tri Phật kiến chính là cái mà hết thảy chúng sanh vốn có. Do vậy, Phật chẳng độ chúng sanh.

Phật ban cho quý vị cái gì?

Cái gì Phật cũng chẳng ban cho, bản thân quý vị đã vốn có. Vốn có, nhưng quý vị mê rồi, chẳng thể thụ hưởng. Đang mê hoặc, điên đảo, đang luân hồi trong lục đạo, sống cuộc đời thê thảm, khổ nạn như thế. Phật đến điểm hóa quý vị. Quý vị có Phật tri Phật kiến, vốn là Phật, nhưng bị mê, mê mất tự tánh.

Do vậy, đối với chúng sanh, Đức Phật chỉ có thể làm được hai chữ: Khai thị.

Dùng phương tiện nào để hoàn thành hai chữ này?

Thân hành và ngôn giáo. Thân hành là thị. Thị làm mẫu cho quý vị xem. Ngôn giáo là giáo hóa bằng lời nói. Đức Phật coi thị là phương pháp trọng yếu để giáo hóa chúng sanh, ngôn nhằm bổ sung những chỗ thiếu sót trong thị.

Vì thế, trước hết nêu gương cho quý vị xem, sau khi xem xong, quý vị sẽ cảm động, lãnh hội. Sau khi nhìn thấy sẽ cảm động, nhưng chưa hiểu rõ lắm, quý vị lại hỏi, khi được hỏi sẽ giải thích cho quý vị. Đức Phật làm trước.

Vì sao Đức Phật phải thị hiện làm một vị Tăng khổ hạnh, tam y nhất bát, đêm nghỉ dưới gốc cây, ngày ăn một bữa ngọ, để làm gì vậy?

Có ý nghĩa gì?

Chúng tôi học nhiều năm như thế, đã hiểu ý nghĩa, nhằm dạy người ta điều gì?

Buông xuống. Buông xuống bèn trở về tự tánh.

Vì sao quý vị mê?

Do quý vị tự tư, tự lợi, có tham, sân, si, mạn, tham ái hưởng thụ ngũ dục, lục trần, do làm những chuyện này cho nên mê.

Trên thực tế, có thể hưởng thụ ngũ dục lục trần hay chăng?

Có thể.

Vì sao không thể?

Quý vị hưởng thụ, nhưng trong lúc ấy chẳng khởi phân biệt, dấy chấp trước nơi ấy, đó là đúng. Nhưng khi quý vị hưởng thụ, bèn khởi phân biệt, dấy chấp trước, khởi lên thất tình, ngũ dục, hỏng rồi. Sẽ sanh ra nhiều tác dụng phụ, đó là tạo nghiệt.

Sanh ra những thứ ấy, những thứ đó lại chuốc lấy quả báo. Do cái nhân chẳng thiện, nên chẳng đạt được thiện quả, thọ sanh trong lục đạo tam đồ.

Quý vị phải hiểu: Lục đạo, tam đồ chẳng có, trong tự tánh chẳng có, vốn chẳng có, nhưng hiện thời là có hay không?

Hiện tại vẫn là chẳng có, nói với quý vị, quý vị đâu có tin. Nói hiện tại có, quý vị sẽ tin tưởng. Nói hiện tại chẳng có, quý vị không tin. Trong sự cảm nhận của Phật, Bồ Tát, đúng là chẳng có, chẳng phải là giả. Đương tướng tức không, liễu bất khả đắc.

Chính tướng ấy là không, trọn chẳng thể được, có ở chỗ nào?

Trong Kinh, Đức Phật thường nói phàm những gì có tướng đều là hư vọng.

Nói tổng kết về Kinh Đại Bát Nhã thì bộ Kinh Đại Bát Nhã gồm sáu trăm quyển đã giảng điều gì?

Nhằm giảng bốn câu: Hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể được, bốn câu ấy. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng Bát Nhã hai mươi hai năm, nhằm dạy chúng ta chân tướng sự thật là như vậy đó. Quý vị chẳng liễu giải chân tướng sự thật, chấp trước nó là có thật, trật rồi.

Trong các cảnh giới, cảnh giới hư huyễn, quý vị dấy lên ý niệm khống chế, chiếm hữu, sai rồi. Quý vị đã tạo tội nghiệp.

Nếu quý vị thụ dụng, nhưng chẳng có ý niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng khởi tâm động niệm, sự thụ dụng của quý vị là sự thụ dụng của Chư Phật Như Lai.

Thưa quý vị, Cõi Thật báo trang nghiêm của Chư Phật Như Lai là sự thụ dụng ấy. Người trong Cõi Thật báo trang nghiêm có thụ dụng, nhưng chẳng có phân biệt, chấp trước, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đó gọi là hưởng thụ thật sự, đó gọi là Thế Giới Cực Lạc.

Chẳng khởi tâm, không động niệm, cho nên sự hưởng thụ của họ chẳng có một tí trở ngại nào, chẳng khởi tâm động niệm. Nay chúng ta hưởng thụ, bèn khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, phiền phức ở chỗ này.

Do vậy, nói: Chẳng có luân hồi mà tạo tác thành luân hồi. Luân hồi là ác mộng. quý vị đi ngủ vốn chẳng có mộng, mỗi ngày gặp ác mộng thì ác mộng do chính quý vị tạo tác, chẳng phải do người khác tặng cho quý vị. 

Đại sự nhân duyên là khai thị ngộ nhập, Đức Phật có thể làm được hai chữ khai thị. Nhưng chúng sanh tiếp xúc sự khai thị ấy, phải ngộ nhập. Ngộ là hiểu rõ, giống như chúng ta thường nói là thấy thấu suốt.

Nhập thế nào?

Nhập là buông xuống, buông xuống là nhập. Quý vị chẳng buông xuống được, sẽ chẳng nhập cảnh giới. Hễ buông xuống liền nhập.

Cận đại, Ấn Quang Đại Sư có một phương pháp hết sức tuyệt diệu, dạy chúng ta ngộ nhập như thế nào. Khi Lão nhân gia tại thế, có một khoảng thời gian rất lâu, Ngài bế quan tại Linh Nham Sơn Tự ở Tô Châu, đó là Đạo Tràng tu học cuối cùng của Lão nhân gia. Tôi đã đến thăm quan phòng gian phòng dùng để bế quan ấy.

Rất nhỏ, hết sức đơn giản, chỉ có một cái bàn vuông, trên bàn thờ một pho Tượng Phật, thứ gì cũng đều chẳng có, rất đơn giản.

Một pho Tượng Phật, một cặp chân đèn, một lư hương, một cái dẫn khánh, một cái mõ nhỏ. Phía sau Tượng Phật viết một chữ to, do chính Lão nhân gia viết. Ngài viết một chữ Tử. Phương pháp này khéo lắm.

Khiến cho quý vị vừa trông thấy, cái chết đã cận kề, thử hỏi quý vị còn có điều gì chẳng buông xuống được chăng?

Vì thế, trong thời đại hiện tại, bản thân tôi thường nghĩ: Thọ mạng của chúng ta tới hôm nay là hết, ngày hôm nay phải chết, còn có gì để mơ tưởng nữa?

Do vậy, chúng ta sẽ sốt sắng, nghĩ đến cái chết, đã chết rồi, cái chết đang đón đầu, còn có thể nghĩ tới ăn, mặc, ở, đi nữa chăng?

Còn có thể mong hưởng thụ hay chăng?

Chẳng có. Hiện thời chỉ còn sót lại một ý niệm cầu sanh Tịnh Độ. Điều gì cũng đều buông xuống, chỉ nghĩ đến A Di Đà Phật, con ở đây chờ Ngài, Ngài hãy đến tiếp dẫn con. Trừ một niệm này ra, ý niệm gì cũng đều chẳng có.

Có thứ gì trong thế gian này là của ta?

Ngay cả cái thân cũng chẳng phải.

Chúng ta phải dùng tâm thái ấy để niệm Phật, đúng như Kinh Di Đà đã nói: Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, cho đến bảy ngày sẽ vãng sanh, thật đấy, chẳng giả đâu.

Hôm nay A Di Đà Phật chưa đến, coi như chưa tới lúc, ngày mai vẫn nghĩ như thế, mỗi ngày đều nghĩ như thế, có nghĩa là gì?

Nêu gương cho các đồng học học Phật, khẳng định có một ngày nào đó, A Di Đà Phật sẽ đến.

A Di Đà Phật nói: Ngươi đã nêu gương, có thể đến Thế Giới Cực Lạc. Chẳng có gì khác, triệt để buông xuống. Buông xuống chẳng phải là bỏ hết mọi việc, chẳng phải vậy. Mọi sự vẫn phải làm, chuyện trong ngày hôm nay vẫn phải làm như thế, nhưng trong tâm không in dấu vết.

Tâm như thế nào?

Trong tâm là một câu A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật, tưởng A Di Đà Phật, thật sự niệm Phật, chẳng giả vờ.

Đấy là gì?

Vì đại sự này mà Chư Phật Như Lai tới thế gian này, để làm gì?

Giúp chúng sanh nhanh chóng thành Phật. Quý vị vốn là Phật, nay quý vị niệm Phật, chắc chắn làm Phật, vốn là Phật mà. Chuyện thế gian, chuyện trong mười pháp giới đừng quan tâm tới, tùy duyên là tốt rồi, không nên phan duyên.

***