Ñeä Töû Quy laø tri thöùc cuûa ngöôøi xöa ñeå laïi.
Toå Tieân nhaân haäu giuùp ñôõ cho neân
Quoác Gia, xaõ hoäi, ñôøi soáng cuûa Quyù vò
khi thöïc haønh seõ ñöôïc keát quaû toát ñeïp

detuquy.edu.vn

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP SÁU - A

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP SÁU - A
 

Chư vị Pháp Sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống!

Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ tư, hàng thứ bảy. Đây là đoạn thứ hai, chúng ta vẫn đọc từ đầu.

Vương thị hội Kinh, tuy đại hữu công ư Tịnh Tông, đản sở hội chi bổn phả đa suyễn ngộ. Bạch khuê chi hà, hiền giả tích chi.

Liên Trì Đại Sư vị kỳ: Sao tiền trước hậu, khử thủ vị tận.

Bành Thiệu Thăng cư sĩ xích chi vi: Lăng loạn quai suyễn, bất hợp viên chỉ. Họ Vương hội tập Kinh, tuy có công lớn đối với Tịnh Tông, nhưng bản hội tập của ông ta có lắm sai lầm. Bạch khuê có viết, người hiền tiếc nuối.

Liên Trì Đại Sư bảo: Sao chép Kinh Văn trong phần trước, ghép thêm lời văn của chính mình sáng tác vào sau đó, lấy bỏ chưa trọn hết.

Cư Sĩ Bành Thiệu Thăng chê trách: Rối ren, sai lạc, chẳng hợp ý chỉ viên dung. Chúng ta xem trước chỗ này.

Trong phần trước, tôi đã giới thiệu các phiên bản Kinh Vô Lượng Thọ hiện đang được lưu thông, ngoài năm bản dịch gốc ra, còn có bốn bản nữa: Ba bản là bản hội tập, một bản là bản tiết lục. Nhân tiện, tôi giới thiệu ở đây. Vương thị họ Vương là Vương Long Thư, hay Vương Nhật Hưu, hội tập Kinh Vô Lượng Thọ sớm nhất. Có thể thấy là từ rất sớm đã có người chú ý tới vấn đề này. Các phiên bản nhiều lắm, mà nội dung sai biệt rất lớn.

Nếu bảo năm bản đều cùng đọc, quả thật rất phiền. Đọc một loại, sẽ chẳng thấy những điều được nói trong bốn bản kia, trong bốn bản kia có rất nhiều Kinh Văn không có trong bản này, rất đáng tiếc. Vì thế, đó là một nhân tố quan trọng khiến cho những bản này được lưu thông rất ít.

Cư sĩ Vương Long Thư là người đời Tống, trong phần trên đã giới thiệu: Ông ta trước tác rất phong phú, niệm Phật thật sự có công phu, khi vãng sanh là đứng mất. Bộ Tịnh Độ Văn của ông ta vô cùng hay, cũng có thể dùng để học Quốc Văn.

Trong phần trước, tôi đã từng giới thiệu với quý vị, Trúc Song Tùy Bút của Liên Trì Đại Sư, Linh Phong Tông Luận của Ngẫu Ích Đại Sư, và Tịnh Độ Văn của cư sĩ Vương Long Thư cũng hết sức hay, văn tự hết sức khá, đều là những tác phẩm văn chương hay của các bậc Đại Đức trong Tịnh Tông.

Chúng ta học văn chương Văn Ngôn, coi những tác phẩm ấy như sách để học Quốc Văn, rất tốt. Sau khi bản hội tập của ông ta ra đời, được lưu thông rất rộng. Quý vị thấy Đại Chánh Tạng của Nhật Bản và Long Tạng được biên tập dưới đời Vua Càn Long đều nhập tạng bản này.

Có thể đưa vào Đại Tạng Kinh tức là được các vị Đại Đức thuở ấy chấp nhận. Thế nhưng bản của ông ta vẫn có sai lầm, suyễn ngộ là sai lầm, còn có những sai sót. Bạch khuê chi hà, hiền giả tích chi.

Bạch khuê có vết, người hiền xót xa, hai câu này thể hiện ý tiếc hận: Đáng tiếc là ông ta làm chưa viên mãn, còn có khuyết điểm. Liên Trì Đại Sư cũng hết sức bội phục ông Vương. Trong bộ Di Đà Kinh Sớ Sao, đây là một tác phẩm rất to lớn, Kinh Văn Kinh Vô Lượng Thọ được trích dẫn trong ấy, quá nửa là trích từ bản hội tập của cư sĩ Long Thư, đây cũng là khẳng định giá trị của bản hội tập ấy.

Đương nhiên, bản ấy chẳng thể tận thiện, tận mỹ, nên Liên Trì Đại Sư cũng phê bình, bảo bản này của họ Vương Sao chép Kinh Văn trong phần trước, ghép phần trước tác của chính mình vào phần sau, lấy bỏ chưa trọn vẹn. Hai câu này trong phần sau đều có giải thích. Bành Thiệu Thăng có tiết bổn, chẳng phải là hội tập, chỉ lấy bản của Ngài Khang Tăng Khải.

Bản dịch của Ngài Khang Tăng Khải cũng chẳng dễ đọc cho lắm, ông Bành đem chỉnh lý một lần nữa, soạn thành bản mới, gạt bỏ những chỗ trúc trắc, thiếu trôi chảy, cho nên bản dịch này đọc lên rất lưu loát, coi như là một bản Kinh hay, nhưng chẳng thể coi là bản hội tập, mà coi là tiết bổn, bản rút gọn, trích yếu, có phân chương đoạn.

Ông ta cũng phê bình bản hội tập của cư sĩ Long Thư, bảo là Lăng loạn quai suyễn, bất hợp viên chỉ.

Rối ren sai lầm, chẳng hợp ý chỉ viên dung, cũng là nói bản hội tập của ông ta chưa hoàn mỹ. Chẳng thể bảo ông Vương không có công lao gì. Quả thật là công lao cũng chẳng thể xóa sạch, nhưng chưa phải là bản hoàn mỹ. Đây là một chuyện rất đáng tiếc.

Tiếp đó là lời giải thích của Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ: Kim bút giả nay người viết, nói về người cầm bút viết bản Chú Giải này, tức là lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ngưỡng thừa cổ đức chư thuyết kính vâng theo các nhận định của cổ đức, nói theo cách hiện thời là căn cứ trên cách nói của cổ đại đức. 

Thiết kê vương thị chi thất, trộm kể ra những khuyết điểm của họ Vương, thiết kê là theo cách so sánh, cách nghĩ của riêng tôi, bản hội tập của cư sĩ Long Thư tối thiểu có ba chỗ sai sót.

Thứ nhất là: Vương thị hội tập, cẩn cứ tứ chủng, vị cập Đường dịch. Đường dịch danh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, xuất tự Đại Bảo Tích Kinh, nãi bồ đề Lưu Chí Đại Sư sở dịch, đa áo diệu tinh yếu chi văn, vi tha dịch sở vô.

Bản hội tập của họ Vương chỉ dựa trên bốn bản dịch, chưa có bản dịch đời Đường. Bản dịch đời Đường có tên là Vô Lượng Thọ Như Lai Hội trích từ Kinh Đại Bảo Tích do bồ đề Lưu Chí Đại Sư dịch, Kinh Văn có nhiều chỗ uyên áo, huyền diệu, tinh tường, trọng yếu mà những bản dịch khác không có.

Tha dịch là bốn bản dịch gốc kia, trong ấy không có những điều được nói trong bản Đường dịch. Quả thật cư sĩ Long Thư cả đời chưa thấy bản Như Lai Hội trong Kinh Đại Bảo Tích.

Từ chỗ này, chúng ta mới hiểu vào thời cổ, có được Kinh Sách đâu phải dễ. Vì thuở ấy, Kinh Sách đều vẫn phải chép bằng tay. Vì thế, trong Kinh Sách cổ truyền có chữ sai là chuyện khó tránh. Một bộ Kinh phân lượng to như vậy, khó tránh khỏi chép thiếu, hoặc chép sai một chữ, hết sức khó tránh chuyện này.

Bản này tức bản Đường dịch, như Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã nói: Có nhiều đoạn văn tự áo diệu tinh yếu. Sâu xa, huyền nhiệm, tinh tế, quan trọng chẳng thấy có trong bốn bản dịch kia, đương nhiên đây là điều sai sót. Đây là chỗ chẳng viên mãn thứ nhất, tức là ông Vương chưa đọc trọn năm bản dịch gốc. Đó là điều thứ nhất.

Thứ hai, khử thủ vị tận lấy, bỏ chưa trọn hết. Đây là lời Liên Trì Đại Sư phê bình, chê Lão Nhân gia ông Vương Nhật Hưu chọn và bỏ chưa trọn vẹn, tức là nói thủ phồn di yếu, cải thâm vi thiển, lấy chỗ rườm rà, bỏ chỗ quan trọng. Sửa chỗ sâu thành cạn, ông ta mắc phải khuyết điểm này.

Những chỗ rườm rà đáng nên tinh giản, ông ta vẫn cứ chép vào bản hội tập. Những thứ quan trọng bị bỏ sót, vì sơ ý mà bỏ sót.

Nêu ra thí dụ nhằm chứng tỏ lời phê phán này chẳng phải là nói tùy tiện: Lệ như Liên Trì Đại Sư sở trách: Như Tam bối vãng sanh.

Chẳng hạn như Liên Trì Đại Sư đã trách: Như trong phần ba bậc vãng sanh, trong đoạn Kinh Văn này, Ngụy dịch giai viết phát bồ đề tâm bản dịch đời Ngụy ghi cả ba bậc đều phát bồ đề tâm, chữ Ngụy chỉ bản dịch của Ngài Khang Tăng Khải.

Trong bản dịch của Ngài Khang Tăng Khải, ba bậc vãng sanh đều phát bồ đề tâm, nhưng trong bản hội tập của Vương Long Thư, chỉ có bậc trung là phát bồ đề tâm, bậc hạ chẳng phát, chẳng hề phát bồ đề tâm, trong bậc thượng cũng chẳng nói, không đề cập.

Tắc cao hạ thất thứ, cố vân vị tận tức là thứ bậc cao thấp bị mất, cho nên bảo là chưa trọn hết, đây là nói khử thủ vị tận.

Lời Ngài nói có căn cứ, Ngài bảo: Do thượng lệ khả kiến, thượng cánh bất ngôn. Do dựa theo điều này, bậc trung đã phát bồ đề tâm, có thể thấy bậc thượng phải phát bồ đề tâm, nhưng trong bản hội tập bậc thượng hoàn toàn chẳng nói phát bồ đề tâm, đó là điều vô lý, thượng là Thượng Bối Vãng Sanh, bản hội tập của ông Vương chẳng nói tới phát bồ đề tâm.

Bồ đề tâm quan trọng lắm. Đây là di yếu, nghĩa là bỏ sót điều quan trọng. Đối với bậc Hạ, chánh Kinh cũng nói là phát bồ đề tâm, nhưng ông ta viết là chẳng phát, tức là bậc Hạ có thể chẳng cần phát bồ đề tâm, đó là cải thâm vi thiển, sửa sâu thành cạn. 

Đây là những chỗ Liên Trì Đại Sư và Bành cư sĩ chê trách ông Vương, thật sự có căn cứ, chẳng phải là nói tùy tiện.

Thứ ba, suất ý tăng văn, nghiễm nhược tự trước. Tùy tiện tăng thêm văn tự, nghiễm nhiên tự soạn thêm, suất ý là tùy ý, tăng thêm văn tự, giống như chính mình sáng tác, điều này không thể chấp nhận.

Phiên dịch thì được. Nếu quý vị dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán thì chấp nhận được, vì quý vị phải châm chước dùng câu chữ nào cho lời văn gãy gọn, dễ hiểu, nhưng không sai ý.

Hội tập thì không thể, hội tập nhất định phải dùng nguyên văn từ các bản dịch gốc, chẳng thể thay đổi văn tự, Ấn Quang Đại Sư hết sức coi trọng chuyện này. Bởi lẽ, tùy tiện sửa đổi văn tự, tôi nghĩ dùng câu chữ theo kiểu này mới hay, tôi bèn sửa.

Quý vị cho rằng hành văn theo kiểu kia mới hay, quý vị lại sửa. Sửa tới, sửa lui, đến cuối cùng chẳng còn cách nào đọc nguyên dạng Kinh Phật nữa.

Do vậy, phải tôn trọng lời dịch gốc, nhất định chớ nên sửa đổi. Dẫu nhận thấy câu văn hay đoạn văn ấy có vấn đề, có thể ghi chú bên cạnh, chẳng thể sửa chữ của người ta, đây là quy củ. Do vậy, chỗ này là sơ sót. Cố Liên Trì Đại Sư trách viết.

Vì thế, Liên Trì Đại Sư trách rằng, quở trách ông Vương: Sao tiền trước hậu, vị thuận dịch pháp. Sao chép Kinh Văn trong phần trước, ghép thêm lời văn của chính mình sáng tác vào sau đó, chưa tuân thủ cách dịch.

Ngay sau đó, cụ Hoàng giảng rõ: Cái trách kỳ sao dẫn Kinh Văn ư tiền. y là chê trách ông Vương đã sao lục Kinh Văn trong phần trước, đó là sao tiền, phục hựu tự trước cú tự ư hậu, lại đem những câu chữ do mình đặt ra, ghép vào phía sau, ghép ý kiến của chính mình vào sau Kinh Văn, cũng giống như chính mình dịch vậy, sai lầm rồi.

Phía sau mỗi đoạn Kinh, nếu có kiến giải, có thể dùng chữ nhỏ ghi chú bên cạnh, nhất định chẳng ghi lẫn lộn vào Kinh Văn. Đây là một điều kỵ húy rất lớn. Đó gọi là sao tiền, trước hậu, vị thuận dịch pháp. Dịch Kinh có quy củ dịch Kinh. Ở đây là đã vi phạm quy củ dịch Kinh, ông ta cũng chẳng phải là phiên dịch, mà là hội tập.

Tiếp đó, Cụ Hoàng giảng: Cái thị hội tập, tất tu y cứ nguyên Kinh, vạn vạn bất khả ư nguyên dịch ngoại thiện tăng văn cú. Đã là hội tập, cần phải dựa theo nguyên văn của bản dịch, muôn vàn chẳng thể tự tiện thêm câu văn do chính mình đặt ra.

Cư Sĩ Long Thư phạm quy củ này: Anh hội tập, chẳng phải là phiên dịch. Anh phiên dịch thì được, chính anh châm chước nên dùng chữ gì, dùng từ gì để dịch ý nghĩa tiếng Phạn này, được phép làm như thế. Nhưng hội tập thì không được.

Bởi lẽ, anh chẳng dựa trên nguyên văn bằng tiếng Phạn, mà dùng bản dịch do người khác đã dịch sang tiếng Hán. Anh nhất định phải tôn trọng, phải tuân theo nguyên văn, chẳng thể thay đổi, động chạm chữ nào. Đây là quy củ hội tập.

Vậy thì cư sĩ Long Thư đã sửa đổi, sửa có khéo hay không?

Sửa thật khéo. Tuy sửa thật khéo, nhưng đã phá hoại quy củ, không được rồi. Quý vị chẳng thể phá hoại quy củ, chẳng thể tạo ra tiền lệ này. Quý vị đã sửa được, người khác cũng có thể sửa.

Đối với quý vị thì không có vấn đề gì, đối với Kinh Phật, sự tu dưỡng của quý vị đã đạt tới tiêu chuẩn, công phu và cảnh giới tu trì cũng đạt tới, quý vị có sửa cũng chẳng sao, nhưng hễ tạo nên tiền lệ này, người đời sau sẽ như thế nào?

Người đời sau tuy chưa có trình độ như quý vị mà cũng sửa chữa: Cư sĩ Vương Long Thư đã có thể sửa, lẽ nào ta chẳng thể sửa?

Hễ tiền lệ này được lập ra, sau này, những tệ đoan sẽ xuất hiện. Nói thật ra, bản hội tập của Vương Long Thư có vấn đề, bản của Ngụy Mặc Thâm cũng có vấn đề.

Chúng ta xem kỹ, ông ta sửa có khéo hay không?

Sửa đúng là khéo lắm, nhưng nếu quý vị nghĩ tới những tác hại về sau, đáng sợ lắm. Không thể tạo nên tiền lệ này. Chẳng phải là nói ông ta sửa không hay, mà là nói chẳng thể lập ra tiền lệ.

Phải như thế nào mới trọn vẹn đôi bề?

Tôi vừa mới nói đấy thôi, dùng chữ nhỏ ghi chú bên cạnh thì được, cách này có thể tận thiện tận mỹ.

Do vậy, đây là: Cố trách Vương thị vị thuận dịch pháp. Do thượng khả kiến Vương thị chi thất vì thế, mới trách là ông Vương chưa tuân theo cách dịch.

Do những điều trên đây, có thể thấy khuyết điểm của họ Vương. Do ông ta có những chỗ thiếu sót, bản hội tập này có những chỗ sai sót, phi thị bất ưng hội tập, nhi tại ư hội bổn chi đa tỳ dã. Chẳng phải là không nên hội tập, mà do trong bản hội tập có nhiều tỳ vết. Đó là tỳ vết. Do có những tỳ vết, nên chẳng thể gọi là tận thiện tận mỹ.

Đây là kiến thức thông thường, nhưng là một kiến thức thông thường rất quan trọng: Chúng ta học Phật, cần phải tôn trọng Kinh Điển. Chẳng thể tùy tiện sửa đổi nguyên văn Kinh Điển, mà đối với Chú Giải của cổ đại đức cũng chớ nên tùy tiện thêm bớt văn tự. Cổ đức có thể chú giải bộ Kinh này, bản Chú Giải ấy có thể lưu truyền cho tới hiện thời, nói chung là mấy trăm năm, trong mấy trăm năm ấy, người đọc tác phẩm ấy rất nhiều.

Quý vị thấy cổ nhân đều tôn trọng, cớ sao chúng ta có thể tùy ý sửa đổi văn tự?

Đấy là chuyện rất thiếu đạo đức. Chúng ta có ý kiến, có thể thêm ghi chú vào bên cạnh, làm như vậy thì được.

Chúng ta lại đọc đoạn tiếp theo: Bành Thiệu Thăng cư sĩ hám ư vương bổn chi thất. Cư sĩ Bành Thiệu Thăng tiếc nuối trước những khuyết điểm trong bản hội tập của họ Vương.

Đây là nói: Rất đáng tiếc. Cảm thấy bản của ông Vương là một bản hay, nhưng hết sức đáng tiếc là có chút tỳ vết này, chưa hoàn mỹ. Nãi thủ Ngụy dịch bổn nhi san tiết chi, bèn lấy bản Ngụy dịch mà gạn lọc, trích lược, ông ta chỉ lấy một bản.

Chẳng thể coi việc làm này của ông ta là hội tập, do chỉ lấy bản dịch của Ngài Khang Tăng Khải đời Tào Ngụy. Vào thời đại Tam Quốc, Tào Tháo cầm quyền, nên Vương Triều thời đó gọi là Tào Ngụy.

Ngài Khang Tăng Khải là người thuở đó. Bởi lẽ, trong thời đại Tam Quốc, Phật Pháp đã khá hưng thịnh, trong lãnh thổ của các Vương Triều Ngụy, Thục, Ngô đều có Phật Giáo, các địa phương đều có Đạo Tràng Phật Giáo.

Thị Vô Lượng Thọ Kinh chi đệ thất chủng là phiên bản thứ bảy của Kinh Vô Lượng Thọ, bản của ông Vương Long Thư vừa nói trong phần trên là loại thứ sáu.

Năm loại trước là bản dịch gốc, loại thứ sáu là bản hội tập của Vương Long Thư, bản của Bành Thiệu Thăng là loại thứ bảy. Loại thứ bảy là tiết bổn, cũng được lưu thông, người ta cũng thích đọc.

Đản thử cẩn vi Ngụy dịch nhất chủng chi tiết bổn, nhi phi chư dịch chi hội bổn. Chỉ là một bản trích lược của bản Ngụy dịch, chưa phải là bản hội tập của các bản dịch.

Trong thời đại hiện tại này, bản tiết bổn này là gì?

Được gọi là kiến thức bùng nổ.

Quý vị thấy số lượng sách so với xưa kia nhiều hơn bao nhiêu?

Trước đây, in ra một quyển sách chẳng dễ dàng. Hiện thời, nhất là do computer quá tiến bộ, xuất bản một quyển sách là chuyện dễ ợt.

Chúng ta vào tiệm sách mà xem, trước kia, vào tiệm sách, từ trường hết sức tốt đẹp, bước vào thư viện hay tiệm sách, từ trường đặc biệt tốt.

Nay thì không còn nữa, hiện thời thỉnh thoảng tôi đến tiệm sách tìm mấy cuốn sách, vừa bước vào tiệm, cảm nhận từ trường hết sức xấu, vì nguyên nhân gì?

Chánh luận chẳng còn nữa, đều là tà tri tà kiến, nên tạo thành cảm giác hết sức lớn, hết sức rõ rệt. Lúc tôi còn trẻ, thường la cà tiệm sách, quả thật là tối thiểu những sách vở của cổ nhân chiếm phân nửa, một nửa là của người thời nay, nửa kia của cổ nhân.

Hiện thời, tác phẩm của Cổ Nhân ít ỏi. Chúng ta tới tiệm sách, sẽ thấy chỉ là một góc nhỏ, những tác phẩm khác đều của con người hiện thời. Vì thế, từ trường rất bất hảo.

Kiếm một nơi có từ trường thanh tịnh thoải mái, gần như hiện nay tìm không ra, do nguyên nhân gì?

Tôi nghĩ mọi người chúng ta đều biết: Ai phá hoại từ trường?

Khoa học kỹ thuật. Những thứ vừa mới được phát minh đã phá hoại từ trường của cả địa cầu. Chúng ta hãy quan sát cẩn thận cuộc sống của chúng ta.

Những thứ người bình thường ăn, đúng như Kinh Vô Lượng Thọ đã nói: Ẩm khổ thực độc, ăn khổ, nuốt độc, toàn ăn thứ độc địa.

Thịt các động vật, nếu là sáu mươi năm trước, chẳng nói xa xôi, so với sáu mươi năm trước, người bảy, tám mươi tuổi có thể nhớ lại, những món thịt quý vị đã ăn lúc nhỏ có mùi vị giống với thịt mình ăn trong hiện tại hay không?

Tôi từng hỏi sư mẫu của tôi, tức phu nhân của tiên sinh Phương Đông Mỹ, tôi nêu ra câu hỏi: Các bà ăn thịt heo, thịt gà, so với lúc tuổi thơ, tuổi thiếu niên, thấy có cùng mùi vị hay chăng?

Bà ta suy nghĩ ba bốn phút, rồi cho biết: Khác hẳn. 

Chúng ta là người ăn chay, hãy suy nghĩ cẩn thận, nay chúng ta ăn rau, những thứ rau thường ăn, cải bẹ trắng cũng vậy, rau giền cũng thế, củ cải cũng thế, đặc biệt là các loại nấm, có giống như sáu mươi năm trước hay không?

Quá khác biệt. Sáu mươi năm trước, vị nấm đông cô ngon hơn nhiều, tuyệt hơn nhiều. Hiện thời chẳng có mùi vị gì. Thấy chúng rất lớn, hình dáng rất dễ ưa, nhưng chẳng có vị gì hết.

Rau dưa cũng chẳng tươi ngon như trước, đều chẳng còn nữa, do nguyên nhân gì?

Thuốc trừ sâu và phân hóa học đã phá hoại rồi.

Do vậy, đất đai hiện thời có chất độc, quý vị trồng thứ gì cũng đều có độc, đây chẳng phải là thực độc ăn chất độc ư?

Đúng vậy. Chẳng giả tí nào. Vì thế, người sống trong thế gian này, càng sống càng vô vị, cuộc sống càng ngày càng khổ sở.

Khoa học hiện thời nói tới gì?

Cơ nhân genes. Phá hoại toàn bộ cổ nhân, phá hoại hoàn cảnh thiên nhiên, phá hoại cuộc sống của chúng ta.

Chúng ta coi phần tiếp theo: Ư thị, vãn Thanh Ngụy Thừa Quán tự Mặc Thâm cư sĩ. Do vậy, vào cuối đời Thanh, cư sĩ Ngụy Thừa Quán, tên tự là Mặc Thâm, chúng ta thường gọi ông này là Ngụy Mặc Thâm, đáng ra phải gọi là Ngụy Nguyên. Ngụy cư sĩ là người đời Thanh. Nói Vãn Thanh vì ông ta sống vào thời Hàm Phong.

Chúng ta biết Từ Hy Thái Hậu là phi tử của Hoàng Đế Hàm Phong. Vị cứu Long Thư chi thất, thủ ngũ chủng nguyên dịch, lánh hành hội tập, biệt thành nhất thư, sơ nhưng danh Vô Lượng Thọ Kinh, hậu Kinh Chánh Định Vương Canh Tâm thị cải danh vi Ma Ha A Di Đà Kinh.

Nhằm cứu chữa khuyết điểm của ông Long Thư, bèn lấy năm bản dịch gốc, tiến hành hội tập lần nữa, soạn thành một bản khác, thoạt đầu vẫn gọi là Vô Lượng Thọ Kinh.

Về sau, được ông Chánh Định Vương Canh Tâm đổi tên thành Ma Ha A Di Đà Kinh. Bản này hiện thời không được lưu thông, nhưng trong Đại Tạng Kinh thì có. Đây là bản thứ tám của Kinh Vô Lượng Thọ.

Ngụy bổn văn tự giản khiết, tinh đáng, viễn quá Vương bổn. Bản của ông Ngụy văn tự đơn giản, trong sáng, tinh vi, thỏa đáng, vượt xa bản của ông Vương, hội tập khá lắm, tiến bộ hơn bản của ông Vương Long Thư.

Đản suất tự tăng văn chi bệnh, vị năng tận miễn, cố Ngụy bổn diệc vị tận thiện dã. Khuyết điểm tự tiện thêm lời văn vào vẫn chưa thể hoàn toàn tránh khỏi, cho nên bản của ông Ngụy cũng chưa phải là hoàn thiện.

Trong Văn Sao, Ấn Quang Đại Sư phê bình ông Ngụy đã tùy tiện dựa theo ý mình, sửa chữa văn tự trong Kinh Văn. Chuyện này, lúc chúng tôi mới học Kinh Giáo với thầy Lý tại Đài Trung, thầy có nêu lên vấn đề này.

Ông ta sửa có khéo hay không?

Sửa thật khéo lắm, nhưng cũng là tạo ra tiền lệ. Quý vị thấy Vương Long Thư đã lập ra tiền lệ này, Ngụy Mặc Thâm lại noi theo lệ ấy, đáng sợ quá. Sợ là sẽ tạo thành tiền lệ cho những kẻ chưa đạt trình độ như vậy, chưa có cảnh giới này, sẽ mặc sức sửa Kinh.

Vấn đề này nghiêm trọng lắm. Tiết bổn như chúng tôi vừa mới nói, đối với xã hội hiện tại rất cần thiết, vì người trong xã hội hiện tại chuộng đơn giản. Quý vị có một quyển Kinh Sách kích thước to như thế, người ta chẳng muốn đọc, mà cũng chẳng có thời gian đọc.

Càng đơn giản càng hay, người ta càng ưa thích, đặc biệt là đối với phần tử tri thức. Do vậy, tôi cũng soạn tiết bổn, biên soạn tiết bổn cho Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.

Đối với Đệ Tử Quy, tôi cũng soạn tiết bổn. Tiết bổn Thập Thiện Nghiệp Đạo của tôi đại khái chỉ có sáu trăm chữ, thuận tiện, mọi người đọc sẽ vui vẻ, lưu thông dễ dàng. Tôi còn có một tiết bổn nữa. Đó là tiết bổn cuốn Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của cư sĩ Giang Vị Nông.

Cuốn Giảng Nghĩa phân lượng rất lớn, tôi trích lấy những điều trọng yếu. Tôi đã từng giảng Kinh Kim Cang một lần, hình như là giảng Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa Tiết Yếu, dùng cuốn tiết bổn này để giảng.

Tiết bổn này cũng được lưu thông, có thể nói là rất thuận tiện cho người mới học. Quý vị muốn thâm nhập hãy đọc nguyên bản. Trong thời đại hiện tại có nhu cầu này.

Tiếp theo đó là nói đến bản hội tập này, giới thiệu nhân duyên khiến cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập. Tiên sư Hạ Liên Cư Lão cư sĩ, thầy của Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã qua đời, đã vãng sanh, nên gọi là Tiên Sư Lão cư sĩ Hạ Liên Cư.

Trước hết, giới thiệu giản lược đức hạnh của Lão cư sĩ. Bi trí song vận, cụ thật sự có lòng từ bi, có trí huệ. Chữ Song chỉ từ bi và trí huệ, tự hành, hóa tha, Vận là vận dụng để tự hành, dạy người.

Điều này khá khó khăn. Có những người sẵn lòng từ bi nhưng thiếu trí huệ. Có kẻ có trí huệ lại thiếu lòng từ bi, không chịu dạy người khác, đều chẳng hoàn bị.

Có trí huệ lại chịu dạy người khác, Bồ Tát đấy. Tông thuyết câu thông, Tông là Thiền Tông, thuyết là Giáo Hạ. Nói đến Đại Thừa Phật Pháp của Trung Quốc thì chính là Tông Môn và Giáo Hạ. Do vậy, bản thân Phật Giáo được gọi là Tông, Giáo, chẳng liên quan gì đến từ ngữ Tôn Giáo như chúng ta nói trong hiện thời, nhất định phải biết điều này.

Phật Pháp tự xưng là Tông Giáo, Tông ở đây là Thiền Tông, còn gọi là Tông Môn, chín tông phái ngoài Thiền Tông đều gọi là Giáo Hạ.

Vì sao nói như thế?

Phương thức giáo học khác nhau. Thiền Tông là Ngộ hậu khởi tu, sau khi đã ngộ, sẽ tu. Khi chưa khai ngộ, chẳng xem Kinh Giáo, chẳng đọc Kinh Điển. Sau khi khai ngộ rồi mới xem Kinh Điển. Còn Giáo Hạ dốc sức nơi Kinh Điển trước, đến cuối cùng là khai ngộ. Vì thế, đây là hai con đường khác nhau.

Như vậy thì Thiền Tông thích ứng với căn tánh nào?

Bậc thượng thượng căn, đó là đối tượng của Thiền, người thường không tu được, chúng ta phải hiểu điều này. Người tầm thường không tu Thiền được. Bởi lẽ, chẳng phải là bậc thượng thượng căn, nếu quý vị tham thiền, tham suốt đời, vẫn gọi là tham uổng công.

Quý vị chẳng khai ngộ. Nếu quý vị chẳng thể khai ngộ, sẽ chẳng thể liễu sanh tử. Nói cách khác, đáng luân hồi như thế nào thì vẫn luân hồi như thế ấy. Do vậy, lúc tôi mới học Phật, ba vị thầy đều cảnh cáo tôi đừng nên học Thiền Tông, quyết định không thể học theo Lục Tổ Đàn Kinh, chẳng thể học đòi Ngài Huệ Năng.

Họ thẳng thừng bảo tôi: Anh không hội đủ điều kiện. Thầy Phương giới thiệu Pháp Tướng Duy Thức và Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Thầy Lý giới thiệu Tịnh Độ và Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, đó là Giáo Hạ.

Đối tượng của Giáo Hạ là ba căn thượng, trung, hạ, dốc sức nơi Kinh Điển, theo thứ tự tiến lên dần dần, giống như đi học, quý vị học từ tiểu học, trung học, đại học, đến nghiên cứu sinh, từ từ tiến lên. Đối tượng của Thiền Tông là đứa trẻ thiên tài.

Nó chẳng cần đến tiểu học, trung học, đại học, chẳng hề cần, có thể vào ngay ban nghiên cứu sinh, có bản lãnh này. Vì thế, thiếu bản lãnh này, chẳng thể học theo họ được. Đúng là chẳng thể tùy tiện học tập được.

Vì thế, trong Phật Pháp, giữa Thiền và Mật, Mật hay hơn Thiền một chút. Đúng là nếu chẳng phải là bậc thượng thượng căn, sẽ chẳng đạt lợi ích nơi Thiền Tông. Mật cũng như vậy, nhưng Mật còn có thứ tự, trước hết học Hiển Giáo, Hiển Giáo có trình độ nhất định.

Hiển Giáo là Giáo Hạ, có trình độ nhất định, phải tham gia khảo thí. Cũng có nghĩa là chưa đại triệt đại ngộ trong Hiển Giáo sẽ chẳng thể học Mật. Đại triệt đại ngộ kiến tánh rồi, so ra, mức độ đại triệt đại ngộ thấp nhất phải là đại ngộ. Có tiểu ngộ, có đại ngộ. Nói cách khác, người muốn tu Mật phải đạt được tâm thanh tịnh.

Đối với đại triệt đại ngộ, chúng ta dùng ngay tiêu chuẩn trong tựa đề Kinh này: Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác. Giác là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó là điều kiện của Thiền Tông, điều kiện của Tông Môn. Trong Giáo Hạ, quý vị đắc thanh tịnh tâm, thưa quý vị, đắc thanh tịnh tâm là buông kiến tư phiền não xuống, chẳng còn chấp trước nữa, đương nhiên trí huệ mở mang, tâm thanh tịnh sanh trí huệ, đó gọi là khai ngộ.

Vẫn chưa phải là đại ngộ, nhưng nếu đã thật sự đắc thanh tịnh tâm, đoạn hết kiến tư phiền não, có thể học Mật được hay không?

Có thể được. Nhưng vẫn chưa phải là học sinh chính thức của Mật Tông. Học sinh chính thức của Mật Tông còn phải nâng cảnh giới lên cao hơn một tầng nữa là đại ngộ, chưa phải là triệt ngộ, mà là đại ngộ.

Đại ngộ là gì?

Vẫn phải buông trần sa phiền não xuống, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng phân biệt, đó là học sinh chính thức của Mật Tông, quý vị mới có tư cách học tập, chẳng dễ dàng đâu nhé. Người ấy đã đại ngộ, nhưng vẫn chưa triệt ngộ.

Vì sao?

Vẫn còn khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm tức là chưa phá vô minh phiền não. Chúng ta chọn lựa pháp môn, chính mình hiểu rõ ràng căn tánh của chính mình. Chọn sai là quý vị đã uống lầm thuốc. Bị mắc bệnh mà uống lầm thuốc, không chỉ chẳng trị hết bệnh, mà không chừng bệnh còn nặng hơn.

Quý vị nói có phiền lắm không?

Phật Pháp là thuốc.

Tám vạn bốn ngàn pháp môn giống như vào tiệm thuốc, thấy các món thuốc bày la liệt nhiều ngần ấy, quý vị có thể uống hết hay chăng?

Có dám uống hay chăng?

Chúng ta biết: Không có bác sĩ kê toa, chẳng dám uống, sợ uống vô là rồi đời.

Vậy mà Phật Pháp quý vị tùy tiện tu, chẳng sợ hay sao?

Vì thế, trong Kinh Đại Thừa, trong Kinh Hoa Nghiêm có nói: Phật Pháp không có ai nói, dẫu là người trí cũng chẳng thể hiểu. Những vị Tổ Sư Đại Đức từ xưa giống như bác sĩ, hay giống như y tá, họ thông hiểu. Chúng ta muốn học Phật, hãy kiếm những người ấy. Họ thấy chúng ta thuộc căn tánh nào, sẽ giới thiệu cho chúng ta Kinh Điển nào. Đấy là chuyện tất yếu, chính mình chớ nên tùy tiện mò mẫm.

Do vậy, quý vị thấy: Trong sự học Phật, thầy là mấu chốt quyết định sự thành bại đối với sự tu học của quý vị trong một đời này. Nếu quý vị thật sự gặp được thiện tri thức hay một vị thầy thật sự tốt đẹp, quý vị sẽ chiếm tiện nghi rất lớn.

Vì sao?

Không đi theo đường vòng. Chính mình mắc bệnh, hãy tìm một bác sĩ giỏi, bác sĩ khám bệnh, kê toa, quý vị uống thuốc ấy vào, sẽ khỏi bệnh. Vì thế, thiện hữu trong Phật Môn khó gặp gỡ.

Chúng ta đến nơi đâu để cầu?

Bất quá, trong hiện tại cũng chẳng có ai cầu.

Vì sao?

Ngay cả đối với cha mẹ mà cũng không hiếu thảo, chẳng cần đến họ, còn nói gì đến tôn trọng thầy?

Phật Pháp là giáo dục của Thánh Hiền, là giáo dục của bậc Đại Thánh Đại Hiền.

Nếu quý vị không biết tôn sư trọng đạo, đến nơi đâu để cầu?

Chẳng có chỗ nào để cầu.

***